(KTSG Online) - Dòng vốn tập đoàn chảy vào giáo dục đại học tư nhân đang tạo một mặt bằng cạnh tranh mới: lớn hơn, chuyên nghiệp hơn và ngày càng gắn với chuỗi giá trị doanh nghiệp. Cùng lúc, thị trường xuất hiện những rủi ro không thể bỏ qua: chất lượng bất đối xứng, thiếu minh bạch và ranh giới mơ hồ giữa sứ mệnh giáo dục và mục tiêu lợi nhuận.
- Muốn mở trường đại học tư thục phải có 1.000 tỉ đồng
- Trường Đại học VinUni trao giải cho sinh viên thế giới tham dự cuộc thi “Giải bài toán kinh doanh toàn cầu”
- Từ Hoa Sen nhìn về tương lai đại học tư thục
Lực hút tập đoàn vào đại học tư nhân
Hai chục năm qua, mô hình “đại học tập đoàn” bùng lên. Vingroup đầu tư VinUni với tham vọng quốc tế, FPT mở rộng Đại học FPT tại Hà Nội, TPHCM, Cần Thơ và Quy Nhơn, Phenikaa phát triển Phenikaa University ở Hà Nội theo hướng nghiên cứu ứng dụng, Becamex vận hành Eastern International University ở Bình Dương cũ gắn với khu công nghiệp, Nguyễn Hoàng vận hành hệ thống Hoa Sen - Hồng Bàng - Gia Định. Quy mô đầu tư và chiến lược dài hạn khác hẳn mô hình trường tư truyền thống.

Ba lý do cơ bản giải thích xu hướng này. Thứ nhất, dư địa thị trường còn lớn: Việt Nam có hơn 1,7 triệu sinh viên nhưng tỷ lệ vào đại học tư chỉ khoảng 15 - 17%. Thứ hai, tầng lớp trung lưu mở rộng, sẵn sàng chi trả cho đào tạo chất lượng cao. Thứ ba, doanh nghiệp cần “khóa chặt” chuỗi giá trị nhân lực: đào tạo, tuyển dụng, nâng kỹ năng theo nhu cầu sản xuất công nghệ. Với tập đoàn, đại học là nguồn thu ổn định, là công cụ xây dựng thương hiệu và đôi khi là mắt xích chiến lược trong hệ sinh thái: công nghệ, y tế, sản xuất, logistics.
Cạnh tranh chất lượng: bắt buộc phải bước lên tầm mới
Sự xuất hiện của các đại học do tập đoàn hậu thuẫn làm tiêu chí cạnh tranh thay đổi. Trước đây, phụ huynh và sinh viên thường căn cứ vào học phí và điểm đầu vào. Nay, tiêu chí chuyển sang tỷ lệ việc làm sau tốt nghiệp, chuẩn kiểm định, liên kết quốc tế và trải nghiệm thực hành. VinUni đặt mục tiêu chuẩn quốc tế; FPT bắt buộc sinh viên thực tập OJT (hình thức đào tạo nhân viên ngay tại nơi làm việc, nơi họ học hỏi và rèn luyện kỹ năng thực tế thông qua việc trực tiếp thực hiện công việc dưới sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm); Phenikaa đầu tư trung tâm nghiên cứu; Eastern International University gắn chương trình với nhu cầu lao động công nghiệp.
Áp lực từ nhóm trường có nguồn lực lớn buộc trường công và trường tư truyền thống điều chỉnh. Nhiều trường công ở Hà Nội và TPHCM đã nâng cơ sở vật chất, mở chương trình liên kết nước ngoài hoặc đẩy mạnh kiểm định để giữ tuyển sinh. Đây là tác động tích cực: cạnh tranh thúc đẩy minh bạch dữ liệu và nâng chuẩn đào tạo.

Nhưng mặt trái rõ rệt. Không phải trường tư nào cũng đủ năng lực. Một số mở phân hiệu, tuyển sinh ồ ạt nhưng thiếu giảng viên cơ hữu, thiếu phòng thí nghiệm, không công bố dữ liệu việc làm hay kết quả nghiên cứu. Sự phân hóa này tạo bất đối xứng thông tin lớn. Phụ huynh khó phân biệt trường nào thực sự chất lượng. Thị trường dễ xuất hiện ảo giác: nhìn vài thương hiệu mạnh rồi cho rằng toàn bộ khối tư đều đạt chuẩn.
Ranh giới giữa học thuật và kinh doanh
Khi đại học trở thành mảnh ghép trong chiến lược tập đoàn, rủi ro dễ thấy nhất là suy giảm độc lập học thuật. Quyết sách mở ngành, phân bổ ngân sách nghiên cứu, chọn đối tác thường chịu áp lực từ mục tiêu lợi nhuận hoặc nhu cầu tuyển dụng nội bộ. Trường có thể ưu tiên các ngành “hợp thị trường” mà bỏ quên nghiên cứu nền tảng.
Mua bán sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực giáo dục gia tăng. Việc mua lại, sáp nhập có thể mang lại quy mô và nguồn lực. Nhưng chuyển chủ sở hữu nhanh, thay đổi mô hình quản trị và áp lực doanh thu cũng có thể biến trường thành công ty con trá hình. Hiện vẫn thiếu quy định yêu cầu các trường tư công khai dữ liệu tối thiểu như tỷ lệ giảng viên cơ hữu, tỷ lệ việc làm sau tốt nghiệp, thu nhập khởi điểm hay tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu. Thiếu minh bạch đồng nghĩa thiếu trách nhiệm giải trình với sinh viên và xã hội.
Luật Giáo dục đại học mở cửa cho tự chủ, nhưng chưa theo kịp tốc độ thay đổi của thị trường. Hiện Nhà nước bắt buộc công bố dữ liệu chất lượng định kỳ. Trường phải công khai tỷ lệ việc làm, thu nhập sau tốt nghiệp, tỷ lệ giảng viên cơ hữu, suất đầu tư cho nghiên cứu, tỷ lệ sinh viên quốc tế và số lượng bài báo khoa học. Các nước trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc đã làm điều này để tạo áp lực minh bạch.
Hai là phân loại trường theo chức năng. Trường định hướng nghiên cứu, ứng dụng hay giảng dạy đại chúng cần được phân nhóm rõ ràng. Cơ chế tài trợ, kiểm định và tiêu chí đánh giá phải phù hợp với chức năng đó để tránh chỉ số “tất cả đều giống nhau” và hạn chế mở ngành tràn lan.
Ba là quy định ranh giới sở hữu và quyền quản trị. Khi tập đoàn bỏ vốn lớn, cần cơ chế đảm bảo hội đồng trường có thành viên độc lập, bảo vệ quyền tự chủ học thuật. Nguyên tắc lựa chọn hiệu trưởng, tỷ lệ thành viên độc lập trong hội đồng và minh bạch về lợi ích sở hữu là những điểm cần luật hóa.
Bốn là kiểm định độc lập và có chế tài. Kiểm định không được là thủ tục hình thức. Cơ quan kiểm định phải có quyền phạt, đình chỉ mở ngành hoặc yêu cầu công bố lại dữ liệu nếu phát hiện sai lệch.
Sẽ phân hóa?
Rõ ràng trong thời gian tới, phụ huynh và sinh viên sẽ chứng kiến sự phân hóa. Nhóm trường có vốn và chiến lược sẽ tăng tốc về cơ sở vật chất, quốc tế hóa và kiểm định; nhóm trung bình nếu không đổi mới sẽ tụt lại. Đồng thời sẽ xảy ra cạnh tranh nhân lực học thuật: trường tư mạnh sẵn sàng trả lương cao để thu hút giảng viên; trường công phải điều chỉnh đãi ngộ. Và dẫn tới dịch chuyển sang mô hình đại học - doanh nghiệp: nhiều trường sẽ xây vườn ươm, trung tâm AI, IoT, hợp tác đồng thiết kế chương trình với doanh nghiệp, kể cả công và tư.
Lựa chọn hướng đi trong thời gian tới sẽ quyết định liệu Việt Nam có xuất hiện vài đại học tư vươn tầm khu vực, quốc tế hay lặp lại vòng lặp đầu tư lớn nhưng thiếu bền vững, trở thành “công ty con” của tập đoàn.
Hiện dòng vốn tập đoàn là cơ hội hiếm có để nâng chuẩn, nhưng cơ hội chỉ biến thành giá trị khi song hành với minh bạch, giám sát và chuẩn chất lượng chung. Lựa chọn hướng đi trong thời gian tới sẽ quyết định liệu Việt Nam có xuất hiện vài đại học tư vươn tầm khu vực, quốc tế hay lặp lại vòng lặp đầu tư lớn nhưng thiếu bền vững, trở thành “công ty con” của tập đoàn.
Tập đoàn có thể mang hàng tỉ đô la, kèm theo là quản trị và công nghệ, nhưng tinh thần đại học là độc lập, phản biện và phục vụ lợi ích dài hạn của xã hội, điều mà pháp luật và các nhà đầu tư phải nghĩ tới.

Việc các tập đoàn đầu tư lớn vào đại học tư là điều tốt nhưng liệu học phí sẽ tăng như thế nào? Sinh viên có gánh nặng tài chính ra sao? Có học bổng đủ mạnh? Tác động xã hội: nếu trường của tập đoàn nghiên cứu tốt nhưng học phí trên trời, thì cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao chỉ dành cho tầng lớp trung lưu? Nhưng đâu là chiến lược đảm bảo công bằng giáo dục? Đâu là tác động dài hạn đến việc thu hẹp chênh lệch đào tạo giữa các vùng miền?
Bài báo vạch ra một xu hướng đúng và kịp thời: mô hình “đại học của tập đoàn” đang lan rộng ở Việt Nam và đi kèm cơ hội – rủi ro. Nhưng mọi người cũng cần thêm thông tin phân tích hệ quả xã hội, và nhìn rộng hơn về tác động tới toàn bộ hệ thống giáo dục đại học.