(KTSG Online) - Việc siết tỷ lệ sở hữu ngân hàng với cá nhân, tổ chức được một số chuyên gia đánh giá là không có nhiều hiệu quả trong việc ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo và thao túng ngân hàng, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến tính ổn định của các cổ đông hiện hữu, làm giảm động lực của nhà đầu tư nhà đầu tư nước ngoài.
- Thế khó trong ngăn chặn sở hữu chéo, thao túng ngân hàng
- Ngăn chặn thao túng ngân hàng nhìn từ vụ việc Vạn Thịnh Phát - SCB
Siết tỷ lệ sở hữu khó ngăn sở hữu chéo
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) hiện hành được ban hành cách đây 10 năm, thời điểm quy mô của các ngân hàng tại Việt Nam chưa lớn, trung bình chỉ vài nghìn tỉ đồng cho mỗi ngân hàng, TCTD. Trong luật quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu cổ phần, gồm: một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng (trừ các trường hợp như sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 Điều 149 của Luật này để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng; Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hóa; Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này – PV); cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
Những quy định này là hợp lý để góp phần ngăn chặn sở hữu chéo, sở hữu có tính chất chi phối, thao túng trong các tổ chức tín dụng.
Nhưng với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính, hình thái sở hữu chéo cũng dần thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, thành lập công ty và sử dụng quan hệ thành viên gia đình (ngoài các thành viên gia đình theo quy định Luật Các TCTD hiện hành – PV) để gián tiếp gia tăng sở hữu cổ phần ở ngân hàng thương mại mà không vi phạm các quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần. Ngoài ra, sử dụng doanh nghiệp “sân sau” để phát hành trái phiếu cho ngân hàng, sau đó lấy số tiền thu được từ bán trái phiếu để mua lại cổ phần ngân hàng, qua đó sở hữu ngầm ngân hàng.
Bối cảnh trên khiến các chuyên gia lo ngại việc giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân, tổ chức, nhóm cổ đông và người liên quan từ mức 5%, 15%, 20% vốn điều lệ xuống còn 3%, 10%, 15%, không có nhiều ý nghĩa trong ngăn chặn sở hữu chéo.
Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng giảm tỷ lệ sở hữu không phải là biện pháp trọng yếu để ngăn sở hữu chéo vì một số yếu tố.
Thứ nhất, tỷ lệ sở hữu của cổ đông và nhóm cổ đông trong luật hiện nay đã là cập nhật, phù hợp thông lệ quốc tế. Thực tế, nếu cổ đông và nhóm cổ đông sở hữu không quá 20% vốn ngân hàng như quy định hiện nay, không ai có thể chi phối được quyền cấp tín dụng của ngân hàng. Song tại nhiều ngân hàng, nhóm cổ đông vẫn sở hữu quá 50% vốn ngân hàng, làm khuynh đảo ngân hàng.
Thứ hai, hiện nay, một số quốc gia chấp nhận mức độ sở hữu của một tổ chức với ngân hàng rất cao, bởi họ xác định “sở hữu không phải là vấn đề”, mà “giám sát cho vay mới là vấn đề”.
Với hai yếu tố trên, chuyên gia này cho rằng ông/bà chủ sở hữu 70% vốn ngân hàng mà chỉ đạo cho vay đúng thì vẫn không nguy hiểm bằng việc ông/bà chủ sở hữu 5% vốn ngân hàng, nhưng lại cho vay sai nguyên tắc. Vì vậy, NHNN cần có cơ chế để giám sát hành vi cho vay sai trái, đồng thời tăng chế tài xử phạt.
“Nhiều ông/bà chủ ngân hàng đồng thời là ông/bà chủ của các tập đoàn bất động sản đang sở hữu hàng trăm công ty con. Thông qua mạng lưới công ty này, lãnh đạo ngân hàng - cũng là cổ đông lớn và là ông chủ sân sau - đã phê duyệt các gói tín dụng vượt quy định. Đồng thời, các công ty con mặc sức phát hành trái phiếu bán cho ngân hàng, rút ruột ngân hàng”, chuyên gia này phân tích.
Như vậy, tỷ lệ sở hữu cổ phần chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Tỷ lệ sở hữu thực được che dấu trong lớp băng ngầm ma trận công ty con và hệ sinh thái chằng chịt. Cho đến nay, chưa có quy định nào để kiểm soát các tập đoàn có mối liên hệ mất thiết với ngân hàng.
Thực tế, tại kết luận vụ án tham ô tài sản, vi phạm hoạt động ngân hàng, đưa hối lộ, nhận hối lộ… xảy ra tại Vạn Thịnh Phát, SCB và các đơn vị, tổ chức liên quan, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C03) cao buộc bà Trương Mỹ Lan - Chủ tịch Vạn Thịnh Phát, với thủ đoạn nhờ người đứng tên sở hữu cổ phần, đã nắm giữ 81,43% cổ phần Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ) dưới tên của 32 cổ đông; 98,74% cổ phần Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa dưới tên của 36 cổ đông và 80,46% cổ phần Ngân hàng TMCP Đệ Nhất dưới tên của 24 cổ đông từ tháng 12-2011.
Sau khi 3 ngân hàng này được hợp nhất vào ngày 10-1-2012 với tên gọi là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), bà Trương Mỹ Lan tiếp tục nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu 85,606% cổ phần SCB, đồng thời trực tiếp đứng tên cổ phần tại SCB để đạt tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng này lên tới 91,545% vào ngày 1-1-2018.
Tính đến tháng 10-2022, SCB có vốn điều lệ hơn 15.200 tỷ đồng (tương ứng 1,523 tỷ cổ phần), với tổng số 4.129 cổ đông. Trong đó, bà Trương Mỹ Lan sở hữu, chi phối 1,394 tỷ cổ phần (chiếm 91,536% vốn điều lệ SCB), bao gồm trực tiếp sở hữu gần 75,89 triệu cổ phần (4,98%), số còn lại do 27 pháp nhân, cá nhân đứng tên hộ.
Với vai trò là cổ đông chính, dù không giữ chức vụ, không tham gia quản trị hay điều hành SCB, nhưng thông qua những người thân tín tại SCB, bị can Trương Mỹ Lan vẫn có thể chi phối, lũng đoạn hoạt động của ngân hàng này, biến ngân hàng thành công cụ tài chính để huy động vốn rồi chiếm đoạt.
Trước khi C03 công bố kết luận vụ án, tại một toạ đàm về sở hữu chéo, theo GS. TS Trần Ngọc Thơ từng nhấn mạnh việc sở hữu chéo, chi phối, thao túng là các thủ thuật rất tinh vi và thường là vô hình, tức các ông/bà chủ ngân hàng có thể chi phối nhà băng dễ dàng dù chỉ nắm giữ 1% cổ phần. Do đó, ứng phó với tình trạng sở hữu chéo bằng một hằng số bất biến về tỷ lệ sở hữu, như quy định tại Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi, khiến cơ quan quản lý khó đạt được mục tiêu.
Còn Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng việc giảm tỷ lệ sở hữu tối đa tại một tổ chức tín dụng so với quy định hiện hành khiến giới ngân hàng lo lắng, và đánh giá có thể làm giảm động lực phát triển.
Theo VCCI, sự thay đổi này, cùng với việc mở rộng khái niệm người có liên quan, được suy đoán là nhằm chống lại tình trạng sở hữu chéo, tăng tính đại chúng của ngân hàng. Từ đó, cải thiện tính minh bạch, giảm xung đột lợi ích khi cấp tín dụng, tăng tính an toàn cho ngân hàng.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy điều ngược lại. Đó là tỷ lệ sở hữu tối đa hiện hành tại Việt Nam tương đối thấp so với nhiều nước, nhưng tình trạng cấp tín dụng tập trung cho một nhóm khách hàng có liên quan vẫn thường xuyên diễn ra, làm tăng rủi ro của hệ thống.
"Dường như quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa đã không thực sự phát huy tác dụng, các cổ đông dù không rơi vào trường hợp người có liên quan theo định nghĩa của luật, vẫn có liên kết chặt chẽ với nhau để đồng thuận cấp tín dụng rất tập trung", VCCI nhận xét.
Bên cạnh nhận xét của VCCI, kết luận của Thanh tra Chính phủ đầu tháng 7-2023 cũng cho thấy tình trạng cấp tín dụng tập trung vẫn diễn ra tại một số ngân hàng
Lo ngại hiệu ứng ngược
Không chỉ ít tạo tác động trong việc chống sở hữu chéo, việc giảm tỷ lệ sở hữu khiến nhiều chuyên gia lo ngại sẽ gây tác động tiêu cực đối với hệ thống ngân hàng. Nếu đề xuất này được thông qua và áp dụng hồi tố, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng rất lớn vì nhiều nhà đầu tư lớn phải thoái vốn. Đặc biệt, quy định này sẽ càng làm giảm sức hấp dẫn của ngân hàng trong nước với nhà đầu tư nước ngoài.
VCCI đánh giá tỷ lệ sở hữu tối đa quá thấp cũng không thực sự tốt cho việc quản trị, vì các cổ đông không thực sự gắn bó với việc kinh doanh của ngân hàng.
“Thực tế, các cổ đông lớn thường không chỉ đầu tư tiền bạc mà còn mang theo cả công nghệ, quy trình quản trị vào các ngân hàng, giúp các nhà băng hoạt động hiệu quả hơn”, VCCI cho biết.
Cũng theo cơ quan này, phương án giảm tỷ lệ sở hữu sẽ khiến một số cổ đông hiện hữu phải bán lại cổ phần của họ. Điều này không bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền tài sản theo Hiến pháp.
Đồng quan điểm, các luật sư của Công ty Luật Baker McKenzie Việt Nam đánh giá việc giảm tỷ lệ sở hữu sẽ có tác động lớn đến các cổ đông hiện hữu, đặc biệt là các cổ đông chiến lược.
Bà Phạm Thị Thúy Vân - Luật sư cấp cao Công ty Luật Baker McKenzie Việt Nam và ông Nguyễn Viết Trung - Luật sư Công ty Luật Baker McKenzie Việt Nam, cho rằng việc giảm tỷ lệ sở hữu sẽ có tác động lớn đến các cổ đông hiện hữu, đặc biệt là các cổ đông chiến lược. Cụ thể, các cổ đông sẽ phải tìm phương án để đáp ứng được quy định về giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, gây tác động lớn đến hoạt động đầu tư - kinh doanh của chính cổ đông đó.
Ngoài ra, việc giảm tỷ lệ sở hữu sẽ làm giảm sức ảnh hưởng của các cổ đông chiến lược trong quản trị nội bộ của TCTD khi họ phải tìm phương án để có thể thông qua các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông của TCTD khi tiến hành biểu quyết.
“Xét một cách toàn diện, việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần phải cân nhắc tính ổn định của các cổ đông hiện hữu, và phải được đánh giá tác động một cách tổng thể”, hai vị luật sư lưu ý.
Thực tế, điệp khúc "tổ chức họp ĐHĐCĐ bất thành" từng lặp lại liên tục tại các cuộc họp thường niên của Eximbank giai đoạn 2019-2022, do những bất đồng giữa nhóm cổ đông lớn - sở hữu cổ phần chi phối với Hội đồng quản trị (HĐQT). Việc này từng khiến HĐQT nhiệm kỳ mới của ngân hàng không thể bầu và kế hoạch kinh doanh năm 2020, 2021 không thể thông qua.
Về dài hạn, hai vị luật sư cho rằng việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ giảm động lực cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam, dẫn đến việc hạn chế nguồn vốn đầu tư, cũng như việc tiếp nhận kinh nghiệm của các định chế tài chính nước ngoài có tên tuổi trên thị trường tài chính quốc tế tại Việt Nam.
Cụ thể, với các ngân hàng là công ty đại chúng hoặc công ty niêm yết - theo Luật Chứng khoán 2019, mức sở hữu của một cổ đông để thực hiện nghĩa vụ báo cáo là 5%. Do đó, quy định về tỷ lệ sở hữu với cá nhân chỉ là 3%, sẽ gián tiếp tác động tới tính minh bạch của thị trường chứng khoán, vì các cổ đông có thể thực hiện giao dịch mua đi - bán lại cổ phần ở các mốc 1% mà có thể không rơi vào trường hợp phải báo cáo giao dịch của cổ đông lớn theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán.
Để tháo gỡ vướng mắc, VCCI cho rằng cơ quan soạn thảo nên quy định chặt chẽ hơn về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan với cổ đông sở hữu từ 3% trở lên đối với cá nhân, 5% đối với tổ chức và 10% với nhóm cổ đông, thay vì giảm tỷ lệ sở hữu. Trong trường hợp vẫn muốn giảm tỷ lệ sở hữu thì không nên áp dụng hồi tố đối với các trường hợp đã sở hữu cổ phần trước ngày luật có hiệu lực.
Còn hai luật sư của Baker McKenzie Việt Nam kiến nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, bổ sung thêm quy định về chi phối nhằm đánh giá toàn diện tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông, gồm cả cơ sơ để tính tỷ lệ sở hữu gián tiếp của cổ đông, thay vì phương án giảm tỷ lệ sở hữu. Theo đó, cần có một cơ chế và các tiêu chí xác định mức độ chi phối của cá nhân đó trong một doanh nghiệp, qua đó gián tiếp tác động lên hoạt động của TCTD.
Chẳng hạn, cổ đông đó sở hữu bao nhiêu phần trăm tại doanh nghiệp đang nắm cổ phần của TCTD, hoặc thẩm quyền của một cá nhân tại doanh nghiệp mà có thể chi phối hoạt động của doanh nghiệp đó.
Trước đó, trong quá trình góp ý xây dựng Luật Các TCTD sửa đổi, Ngân hàng quốc tế Việt Nam (VIB) cũng kiến nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ, hoặc hướng dẫn cụ thể hơn về cách tính sở hữu gián tiếp thông qua người có liên quan, cơ sở để xác định sở hữu gián tiếp và việc loại trừ phần sở hữu gián tiếp đối với những trường hợp cụ thể.
Chẳng hạn, ông A sở hữu 4% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của TCTD X, đồng thời sở hữu 20% vốn điều lệ của Công ty cổ phần B, nhưng không tham gia HĐQT, Ban kiểm soát, Ban điều hành Công ty B. Còn Công ty B sở hữu 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của TCTD X, theo quyết định đầu tư hợp pháp của HĐQT Công ty B.
“Vậy có thể hiểu ông A thông qua người có liên quan để sở hữu thêm 1% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của TCTD X và ông A được xác định là cổ đông lớn của TCTD X hay không?”, VIB nêu vấn đề.