Thứ Bảy, 7/06/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Lợi thế chi phí vốn của các ngân hàng lớn

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Lợi thế chi phí vốn của các ngân hàng lớn

(TBKTSG) - Vì sao một số ngân hàng thương mại mặc dù giảm lãi suất cho vay xuống dưới mức lãi suất huy động nhưng vẫn đảm bảo có lãi trong hoạt động tín dụng?

Thời gian gần đây, một số ngân hàng thương mại lớn đã mạnh tay giảm lãi suất cho vay xuống mức tương đương lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Động thái này khiến nhiều người thắc mắc: chi phí dự trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí hoạt động... đã đội chi phí huy động vốn từ mức 17%/năm lên mức khoảng trên 18%/năm, làm sao có thể cho vay dưới mức này. Thật ra, lãi suất cho vay phải căn cứ trên chi phí vốn hợp lý và để tìm câu trả lời cho vấn đề chi phí vốn, chúng ta hãy xem xét cơ cấu nguồn vốn. Thông thường các ngân hàng huy động vốn từ sáu nguồn chính:

Thứ nhất: Tiền gửi của các cá nhân, tổ chức, gọi chung là tiền gửi khách hàng (hay tiền huy động từ thị trường 1- M1): Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng có uy tín thường có tỷ lệ này rất cao, chiếm khoảng 70-80% tổng nguồn vốn.

Các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước có lợi thế về nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế do có cơ sở lớn khách hàng doanh nghiệp. Ví dụ, số dư huy động từ tổ chức kinh tế chiếm khoảng 60% số dư huy động từ khách hàng của Vietcombank và 56% từ khách hàng của BIDV vào cuối năm 2007.

Ngân hàng nào càng có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn cao càng có lợi thế về chi phí vốn. Các NHTM nhà nước có cơ sở khách hàng lớn với hàng trăm ngàn tài khoản không kỳ hạn, đặc biệt là tài khoản của các tổng công ty lớn, lượng tiền gửi trên tài khoản không kỳ hạn lớn hơn nhiều lần số dư huy động của một số ngân hàng quy mô nhỏ. Lợi thế về tỷ lệ số dư tiền gửi không kỳ hạn này sẽ phát huy sức mạnh của nó khi sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn gia tăng.

Thứ hai: Tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng khác hay còn gọi là nguồn vốn huy động từ thị trường 2 (M2). Nguồn vốn này huy động thông qua thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cho vay và gửi tiền lẫn nhau. Ngân hàng lớn sẽ có tỷ lệ tiền huy động từ thị trường 2 thấp hơn các ngân hàng nhỏ và ngược lại. Các ngân hàng lớn thường cấp một hạn mức tín dụng cho các ngân hàng nhỏ, hoặc bằng hình thức thế chấp giấy tờ có giá (trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty...) hoặc tín chấp. Lãi suất trên thị trường M2 thường cao hơn trên thị trường M1 và có thể tăng rất cao khi một số ngân hàng thiếu vốn dự trữ cho mục đích thanh khoản như thời gian vừa qua.

Thứ ba: Tiền gửi thanh toán và tiền vay của các tổ chức và của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tỷ lệ nguồn vốn này không cao, tùy thuộc vào từng ngân hàng. Các ngân hàng vay NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở, thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu chứng từ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu Kho bạc Nhà nước... Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ này là phải có sẵn chứng từ có giá. Các ngân hàng thương mại tỏ ra không mặn mà với nghiệp vụ này. Một số NHTM nhà nước được giao nhiệm vụ làm đầu mối thanh toán liên ngân hàng, thanh toán cho các dự án của Chính phủ, dự án ODA... nên có tỷ lệ lượng tiền này tương đối cao trong cơ cấu nguồn vốn.

Thứ tư: Phát hành giấy tờ có giá, bao gồm chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu thông thường, trái phiếu tăng vốn... Trước đây, các ngân hàng thường ít thực hiện hình thức huy động vốn này do yếu tố thị trường, người gửi tiền chưa quen với các loại giấy tờ có giá. Mấy năm trở lại đây, các ngân hàng đã tích cực đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, tăng tính hấp dẫn của các sản phẩm huy động vốn, phát hành giấy tờ có giá đã phổ biến hơn. Tuy nhiên, nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng chưa cao trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng. Lãi suất của giấy tờ có giá thường cao hơn lãi suất các khoản tiền gửi có kỳ hạn.

Thứ năm: Nguồn vốn chủ sở hữu, thường bao gồm vốn điều lệ, thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ dự trữ. Đây là nguồn vốn ổn định dài hạn của các ngân hàng. Tỷ lệ nguồn vốn này cao sẽ đảm bảo các hệ số an toàn hoạt động như hệ số CAR (tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tài sản có rủi ro), giới hạn cho vay từng khách hàng... Tuy nhiên, nếu duy trì tỷ lệ nguồn vốn này quá cao cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE), khả sinh tài sản có (vốn chủ sở hữu/tổng tài sản)... Ngược lại, tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp sẽ làm giảm các chỉ số an toàn hoạt động nhưng lại làm tăng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Tùy từng ngân hàng với các chiến lược khác nhau, tỷ lệ vốn chủ sở hữu được duy trì ở các mức độ khác nhau.

Thứ sáu: Các nguồn vốn khác. Nguồn vốn này thường bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản lãi phải trả, các khoản vay và nợ khác. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng.

-

VCB

BIDV

ACB

Sacombank

Techcombank

Eximbank

VIBank

(*)

CKH

KKH

CKH

KKH

CKH

KKH

CKH

KKH

CKH

KKH

CKH

KKH

CKH

KKH

Tổng tiền gửi (đ)

100

100

100

100

100

100

100

Cơ cấu tiền gửi

49,3%

50,7%

67,7%

32,3%

81,7%

18,3%

84,4%

15,6%

80,5%

19,5%

80,5%

19,5%

83,6%

16,4%

Lãi suất tiền gửi bình quân (**)

16,8%

3%

17%

3,6%

16,6%

3%

16,8%

3%

16,6%

3%

16,2%

3%

17,4%

3%

Chi phí dự trữ bắt buộc

2,08%

0,37%

2,1%

0,44%

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới