Thứ Năm, 1/06/2023, 08:48
30 C
Ho Chi Minh City

Đặt báo in

Thông tin quảng cáo

Thông tin quảng cáo


Lượng giá mạng sống con người

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Lượng giá mạng sống con người

Nguyễn Văn Tuấn (*)

Một ca phẫu thuật ở Bệnh viện Nguyễn Trãi. Ảnh: Lê Toàn.

(TBKTSG) – Một trong những câu hỏi gai góc nhất trong quản lý y tế là: mạng sống con người trị giá bao nhiêu?

Câu hỏi có thể đặt ra nhiều vấn đề đạo đức, thậm chí mang tính xúc phạm. Nhưng trong thời kỳ kinh tế khó khăn và chi phí y tế ngày càng tăng vọt, giới quản lý y tế phương Tây đã và đang tìm những mô hình tối ưu trong việc phân phối tài nguyên y tế.

Một trong những chỉ số để trả lời câu hỏi trên là QALY (quality adjusted life years – tạm dịch là số năm chất lượng sống). Bài này giải thích chỉ số QALY và ứng dụng trong việc quyết định phương án điều trị và quản lý y tế.

Phần lớn chúng ta có lẽ đều cảm thấy bị xúc phạm trước câu hỏi: mạng sống con người trị giá bao nhiêu? Bởi vì mạng sống con người là vô giá, không có gì có thể thay thế. Nhưng dù suy nghĩ như thế, chúng ta vẫn hay so sánh hàng ngày. Công nhân chấp nhận những công việc nguy hiểm với một mức lương cao hơn bình thường. Giá bảo hiểm nhân thọ thay đổi tùy theo thành phần người mua và tùy theo cái giá mà người mua muốn trả. Do đó, dù câu hỏi mang tính xúc phạm, nhưng các nhà kinh tế phương Tây vẫn lạnh lùng đưa mạng sống con người lên bàn cân kinh tế qua đơn vị đồng tiền.

Và, họ cũng có lý do làm chuyện cân đo đong đếm đó. Chúng ta hãy bắt đầu với một tình huống thực tế để hiểu vấn đề hơn. Bệnh nhân là một kỹ sư người Anh trong độ tuổi trung niên, mắc bệnh ung thư thận, di căn đến phổi. Bác sĩ đề nghị điều trị với thuốc Stutent (sunitinib). Qua nghiên cứu lâm sàng, thuốc có hiệu quả làm chậm sự phát triển của ung thư khoảng sáu tháng, và với giá 54.000 đô la Mỹ. Bệnh nhân không có khả năng tài chính cho một chi phí như thế. Ở Anh, nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ một phần chi phí điều trị, nên nhà nước cũng tham gia vào quá trình quyết định. Qua tính toán cân bằng giữa hiệu quả lâm sàng và phí tổn, nhà nước từ chối đề nghị của bác sĩ. Bệnh nhân chờ chết.

Nhu cầu cho một chỉ số đo lường hiệu quả lâm sàng

Dựa vào lý do và cơ sở tính toán nào mà Chính phủ Anh để cho bệnh nhân chờ chết? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ cần phải nói qua về việc đánh giá hiệu quả lâm sàng của một loại thuốc, một phẫu thuật, hay nói chung là một phương pháp điều trị. Thông thường, hiệu quả của một thuật điều trị được đánh giá qua các chỉ số lâm sàng mang tính định lượng. Chẳng hạn như hiệu quả của thuốc điều trị ung thư là kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân, hay hiệu quả của thuốc điều trị loãng xương là giảm nguy cơ gãy xương, hay đối với thuốc điều trị cao huyết áp thì hiệu quả lâm sàng thường được đánh giá qua mức độ giảm huyết áp.

Ưu điểm của các chỉ số lâm sàng này là có tính “đặc hiệu” cho từng bệnh (chẳng hạn như huyết áp đối với bệnh cao huyết áp, hay mật độ xương với bệnh loãng xương). Những chỉ số lâm sàng này chỉ phản ảnh khía cạnh “lượng”, mà không phản ảnh phần “chất”. Một loại thuốc có thể có hiệu quả kéo dài tuổi thọ thêm một năm cho bệnh nhân, nhưng nếu trong một năm đó bệnh nhân phải sống với chất lượng sống thấp hay tình trạng thực vật thì không thể xem là hiệu quả cao được. Do đó, cần phải có một chỉ số mới phản ảnh cả hai khía cạnh lượng và chất, một chỉ số thống nhất với đơn vị chung cho tất cả các bệnh.

Để đo lường chất lượng, các nhà nghiên cứu phỏng vấn nhiều người trong thời kỳ sức khỏe sung mãn. Hai khía cạnh chính được quan tâm là sức khỏe thể lực và tinh thần. Các nhà nghiên cứu còn hỏi những người này một năm sống xứng đáng bao nhiêu điểm trong nhiều tình huống khác nhau như sức khỏe sung mãn, khó khăn trong việc đi đứng, trong trường hợp phải nằm liệt giường, hay trầm cảm/buồn rầu…

Nói cách khác, những đối tượng này phải tưởng tượng ra những viễn cảnh họ chưa từng kinh qua, và do đó, điểm hay thông số chất lượng mang tính chủ quan. Kết quả của nghiên cứu này là một thông số có tên “utility”, thường được hiểu như là “hệ số hữu dụng” trong kinh tế học, nhưng ở đây sẽ đề cập đến như là “hệ số chất lượng sống”.

Hệ số chất lượng sống có giá trị từ 0-1. Hệ số bằng 0 có nghĩa là chết, và 1 là trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo. Chẳng hạn như nếu bệnh nhân có thể đi đứng bình thường, có thể tự làm vệ sinh cá nhân, không có gì buồn phiền, nhưng hay đau nhức thì hệ số chất lượng sống là 0,76. Nhưng nếu bệnh nhân nằm một chỗ, trong tình trạng thực vật, hệ số chất lượng sống có thể âm (như -0,42).

Định giá mạng sống con người?

Từ đó, các chuyên gia y tế phát triển chỉ số QALY. Trong thực tế, QALY được tính bằng cách lấy hệ số chất lượng sống nhân cho số năm sống. Do đó, QALY bằng 1 có nghĩa là một năm sống trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo. Chẳng hạn như nếu bệnh nhân 65 tuổi, mắc bệnh ung thư trực tràng, hệ số chất lượng sống là 0,93, và nếu bệnh nhân còn sống 20 năm nữa, thì chỉ số QALY là 0,93 × 20 = 18,6. Nói cách khác, tuy bệnh nhân sống 20 năm, nhưng thời gian đó chỉ tương đương với 18,6 năm trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo.

Để tính toán hiệu quả kinh tế của một loại thuốc hay phương pháp điều trị, các chuyên gia tính chi phí trên mỗi QALY. Chẳng hạn như trong trường hợp bệnh nhân 65 tuổi vừa đề cập, nếu chi phí điều trị trong vòng 20 năm là 50.000 đô la Mỹ, thì chi phí tính trên QALY là khoảng 2.700 đô la (lấy 50.000 chia cho 18,6).

Câu hỏi đặt ra là trị giá trên mỗi QALY bao nhiêu có thể xem là “có hiệu quả kinh tế”? Theo mô hình tính toán của các nhà nghiên cứu Anh, nước Anh chỉ có khả năng chi 50.000 đô la Mỹ cho mỗi QALY. Bất cứ thuốc nào trên giá này được xem là thiếu hiệu quả kinh tế.

Chẳng hạn như trong trường hợp bệnh nhân được đề cập trong phần đầu bài viết, vì thuốc kéo dài tuổi thọ chỉ sáu tháng (0,5 năm), và với những tác động phụ của thuốc, hệ số hữu dụng chỉ khoảng 0,6, do đó chỉ số của bệnh nhân là QALY = 0,5 × 0,6 = 0,3. Với cái giá 54.000 đô la, chi phí tính trên QALY là 54.000 / 0,3 = 180.000 đô la (tức cao hơn mức chính phủ có thể trả). Dựa vào tính toán này, Chính phủ Anh cho rằng chi phí để kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân là quá đắt.

Nhưng một số nghiên cứu thực tế ở Mỹ cho thấy 1 QALY có thể trị giá khoảng 100.000 đô la Mỹ, thậm chí 300.000 đô la. Trị giá này được tính toán dựa vào bệnh nhân suy thận nếu được chạy thận mỗi ngày thì mỗi năm tốn khoảng 70.000 đô la (ở Mỹ). Và mỗi năm sống của bệnh nhân thận có hệ số chất lượng sống khoảng 0,69. Vì thế, tính trên mỗi QALY trị giá QALY ở Mỹ là 101.449 đô la (lấy 70.000 chia 0,69). Tuy nhiên, ngay cả con số này cũng vẫn còn trong vòng tranh luận.

Trường hợp Việt Nam?

Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề ứng dụng chỉ số QALY cũng có phần khó khăn, chủ yếu do thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Ngoài ra, do thiếu nghiên cứu khoa học, nên việc ứng dụng chỉ số QALY ở nước ta có thể là một vấn đề nan giải.

Tuy nhiên, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho rằng có thể dựa vào thu nhập bình bình quân đầu người sau khi điều chỉnh cho sức mua (còn gọi là PPP – purchasing power parity) để ấn định trị giá có hiệu quả kinh tế cho một thuật điều trị. Theo WHO, nếu chi phí điều trị tính trên QALY thấp hơn PPP thì thuật điều trị được xem là rất có hiệu quả. Nếu chi phí điều trị tính trên QALY bằng hoặc cao gấp ba lần PPP, thuật điều trị có thể xem là có hiệu quả. Còn nếu chi phí điều trị tính trên QALY hơn 3 lần PPP, thuật điều trị có thể xem là không có hiệu quả kinh tế.

Theo số liệu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2008 là 1.047 đô la, và PPP là 2.774 đô la. Do đó, theo WHO, thuật điều trị hay thuốc có chi phí trên mỗi QALY thấp hơn 8.322 đô la (hay khoảng 145 triệu đồng) có thể xem là “có hiệu quả”. Tuy nhiên, cách tính này dựa vào hệ số chất lượng sống của người phương Tây. Yếu tố văn hóa và cảm nhận của người Việt về tình trạng sức khỏe có thể rất khác với cảm nhận của người phương Tây, nhưng chúng ta chưa biết những cảm nhận về bệnh tật ở người Việt ra sao.

Tuy nhiên, cũng như bất cứ chỉ số nào, QALY không phải là hoàn hảo. Nhược điểm lớn nhất của QALY là thiếu tính nhạy (sensitivity), khi so sánh hai thuật điều trị cho những bệnh không nghiêm trọng. Ngoài ra, đối với những bệnh mãn tính, chất lượng cuộc sống là một khía cạnh quan trọng hơn là thời gian sống, và QALY chưa phản ảnh chính xác được hai khía cạnh này.

Hầu hết những tiến bộ trong y khoa luôn có “mặt tối”. Một mặt, những tiến bộ y khoa có lợi ích kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân, giảm nguy cơ tử vong, hay nâng cao năng suất lao động, nhưng mặt khác bất cứ thuốc hay thuật can thiệp nào cũng có những ảnh hưởng phụ. Tuy gọi là “phụ” nhưng có khi nguy hiểm đến mạng sống của bệnh nhân. Do đó, đánh giá sự tiến bộ trong y khoa không chỉ dựa vào chỉ số lâm sàng, mà còn phải tiếp cận vấn đề để hiểu những lợi và hại, đặc biệt là lợi ích lâm sàng phải được phân tích cùng với chi phí điều trị.

Nguyên lý đằng sau của chỉ số QALY cũng có thể xem tương đương với tư duy “liệu cơm gắp mắm” của người Việt. Trong bối cảnh kinh tế kém phát triển và phần lớn dân số ở nước ta vẫn còn trong tình trạng nghèo khó, thiết tưởng QALY cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa để có một phương tiện tốt trong việc đi đến quyết định tốt nhất cho bệnh nhân và giúp cho các giới chức quản lý y tế hoạch định những chính sách công bằng và có hiệu quả hơn.

(*) Viện Nghiên cứu y khoa Garvan, Sydney, Úc

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới