(KTSG Online) – Trong khi năng lượng tái tạo, hydro xanh, than sinh khối hay điện hạt nhân đã xuất hiện dày đặc trong các chiến lược trung hòa carbon, thì công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon vẫn là khoảng trống lớn ở Việt Nam.
“Kho bạc” dưới đáy biển

Các nghiên cứu của JOGMEC (Tổ chức An ninh Kim loại và Năng lượng Nhật Bản) đang hợp tác với Việt Nam cho thấy các bồn trầm tích ngoài khơi Việt Nam có thể lưu trữ hơn 10 tỉ tấn CO₂. Hai khu vực tiềm năng nhất: bồn Sông Hồng ở phía Bắc và bồn Cửu Long ở phía Nam. Tiềm năng này biến Việt Nam thành một trong những nước có dung tích lưu trữ CO₂ lớn ở Đông Nam Á.
Nguyên lý lưu trữ carbon (CCS – Carbon Capture and Storage, thu giữ và lưu trữ CO₂) không mới, như cách thế giới đã và đang làm: CO₂ được thu từ ống khói các nhà máy nhiệt điện, xi măng, thép; nén lại rồi bơm xuống tầng đá xốp ở độ sâu trên 1.000 mét dưới đáy biển hoặc mỏ dầu khí đã khai thác xong. Lớp đá phủ kín phía trên sẽ “khóa” CO₂ hàng thế kỷ.
Do vậy, nếu thị trường carbon và khung pháp lý được hình thành, Việt Nam có thể biến lợi thế địa chất này thành dịch vụ: cho thuê “kho” lưu trữ CO₂ cho phát thải carbon trong nước và cả khu vực, giống như một dạng hạ tầng năng lượng.
Hiện tại bơm carbon xuống đáy biển rồi “nhốt” lại đang giao dịch với giá hơn 300 -650 đô la/tấn và phần lớn, khách hàng mua tín chỉ loại bỏ carbon (carbon removal) dạng này là các tập đoàn lớn trên thế giới, điển hình Microsoft là khách mua lớn trên thị trường.
Viên gạch đầu tiên ở Nghi Sơn
Năm 2023, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam) và JOGMEC ký biên bản ghi nhớ để nghiên cứu thành lập một trung tâm lưu trữ CO₂ ngoài khơi Thanh Hóa, tại lô 103 và 104. Vùng biển này cách bờ 100km, nằm gần cụm nguồn phát thải lớn: nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn, nhiệt điện, xi măng trong tam giác Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh.

Lộ trình dự kiến trong giai đoạn 2025-2030 của Việt Nam: nghiên cứu chi tiết và khoan thăm dò; năm 2031: ra quyết định đầu tư cuối cùng; năm 2035: bắt đầu bơm CO₂, công suất 1-3 triệu tấn/năm, kéo dài 20-30 năm.
Ước tính chỉ riêng khu vực này có thể chứa 1 tỉ tấn CO₂. Nếu dự án thành công, Nghi Sơn sẽ là trung tâm lưu trữ CO₂ đầu tiên ở Việt Nam, kết nối thu gom CO₂ từ các khu công nghiệp phía Bắc và mở đường cho các dự án khác ở bồn Cửu Long hay Nam Trung bộ.
Tiền đâu và luật nào cho CCS?
Chính phủ đã đưa CCS vào chiến lược khí hậu quốc gia. Theo Quyết định 266/QĐ-TTg ký tháng 2-2025, giai đoạn đến năm 2030 sẽ thí điểm CCS tại một số nhà máy nhiệt điện than; đến 2045, có 25.000 MW công suất than chuyển sang sinh khối hoặc amoniac có tích hợp CCS; và đến 2050, các nhà máy than còn lại phải áp dụng CCS.
Quyết định số 896/QĐ-TTg (Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050) và Quyết định số 888/QĐ-TTg (Kế hoạch thực hiện cam kết tại COP26) đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ CCS cho các nhà máy điện và công nghiệp sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Nhưng, khoảng cách giữa định hướng và thực tế còn xa. Việt Nam hiện chưa có quy định về quyền sở hữu, quản lý tầng đá lưu trữ dưới biển. Tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn cho quá trình bơm CO₂. tất nhiên cũng chưa có luôn; rồi các quy định liên quan trách nhiệm pháp lý khi rò rỉ; cơ chế tài chính, tín chỉ carbon gắn với dịch vụ lưu trữ. Rõ ràng, chưa có những nền tảng này, CCS khó đi từ nghiên cứu sang triển khai, vẫn mải chỉ là các tham luận khoa học trong các hội thảo, diễn đàn.
Bài toán vốn cũng nan giải. Chi phí thu giữ và lưu trữ CO₂ trên thế giới dao động 50 - 100 đô la/tấn. Một dự án CCS quy mô trung bình cần đầu tư ban đầu hàng tỉ đô la. Ai trả tiền để chôn CO₂? Doanh nghiệp phát thải, ngân sách hay quỹ quốc tế?
Đương nhiên là các chuyên gia vẫn nhìn ra nước ngoài xem cách họ làm. Đó là bán tín chỉ carbon tạo nguồn thu bù chi phí, Nhà nước hỗ trợ miễn thuế, trợ giá hoặc đầu tư chung hạ tầng lưu trữ ban đầu và cuối cùng là cơ chế chia sẻ rủi ro pháp lý và kỹ thuật giữa Nhà nước - doanh nghiệp.
Cho thuê “kho” lưu trữ cabron, tại sao không?
Nhưng nếu muốn trung hòa carbon vào năm 2050 như Việt Nam đã cam kết thì giảm phát thải nhanh nhất ở các lĩnh vực khó giảm phát thải như xi măng, nhiệt điện, thép thì lưu trữ carbon dưới lòng biển là cơ hội và cũng là giải pháp nhanh nhất. Nên nhớ, ba lĩnh vực công nghiệp nói trên hiện đang chiếm tới 40% tổng phát thải của cả nước.
Hơn nữa, một khi thực hiện được giải pháp lưu trữ cabron thì vẫn giữ được đà tăng trưởng của công nghiệp trong nước, lại đạt mục tiêu Net Zero. Cuối cùng là mở ra dịch vụ môi trường mới: xuất khẩu dung tích lưu trữ CO₂, hay nói nôm na là cho thuê “kho” lưu trữ CO₂ cho các nước.
Lưu trữ carbon là công nghệ cao, chi phí đắt đỏ, cần vốn đầu tư ban đầu lớn và hiện nay chỉ có một số quốc gia có trình độ công nghệ cao thực hiện như Mỹ, một số quốc gia châu Âu. Trong khi đó, Việt Nam gần như chỉ mới nghiên cứu, đánh giá, tất nhiên là thiếu kinh nghiệm vận hành, giám sát an toàn dài hạn, đặc biệt là chưa có khung pháp lý cho CSS.
Dự án Nghi Sơn có thể là phép thử đầu tiên nhưng buộc phải thử nếu muốn trung hòa carbon vào năm 2050.
Câu hỏi “Liệu Việt Nam có đủ sức bơm carbon xuống sâu đáy biển không?” đánh trúng một chủ đề nóng trong hành trình net zero toàn cầu: lưu trữ carbon dưới lòng đất hoặc đáy biển sâu (carbon capture and storage – CCS).
1. Về công nghệ – Việt Nam chưa sẵn sàng
Việc “bơm CO₂ xuống đáy biển” – cụ thể là lưu giữ CO₂ trong tầng ngậm nước sâu, mỏ dầu khí cạn hoặc cấu trúc địa chất dưới đáy biển – đòi hỏi:
Nghiên cứu kỹ địa tầng (geological survey);
Hệ thống thu gom CO₂ từ các nguồn phát thải lớn (như nhà máy nhiệt điện, xi măng…);
Công nghệ nén – vận chuyển – bơm sâu dưới lòng đất;
Giám sát rò rỉ trong hàng trăm năm.
Việt Nam chưa có dự án CCS nào quy mô công nghiệp. Trong khi đó, các nước như Na Uy, Mỹ, Canada, Nhật Bản… đã có dự án CCS thực tế, có nơi bắt đầu từ thập niên 1990.
2. Về địa chất – có tiềm năng
Báo cáo của Viện Dầu khí Việt Nam và JOGMEC (Nhật) từng đánh giá bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay-Thổ Chu… có triển vọng làm nơi lưu trữ CO₂, đặc biệt là các mỏ khí đã khai thác cạn. Ngoài ra, trữ lượng khí hydrat (băng cháy) ở Biển Đông nếu được khai thác cũng sẽ mở ra cơ hội “kết hợp khai thác và lưu giữ CO₂”.
Tuy nhiên, chưa có bản đồ chi tiết hóa trữ lượng – thể tích lưu trữ CO₂ và độ an toàn.
3. Về chính sách và vốn đầu tư – còn thiếu
Việt Nam chưa có khung pháp lý cho CCS, từ cấp phép, giám sát, đến chia sẻ rủi ro.
Không có tín chỉ carbon cụ thể cho CCS, nên khó thu hút đầu tư tư nhân.
Mỗi tấn CO₂ lưu trữ tốn 50–100 đô la, cao hơn nhiều so với các biện pháp “carbon removal tự nhiên” như trồng rừng hay biochar.