(KTSG) - Chiến tranh thương mại là một cách hữu hiệu để người Mỹ có thể kìm hãm sự lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc. Chỉ trong vòng ba thập niên, Trung Quốc đã trỗi dậy đe dọa vị trí số 1 của Mỹ, tuy nhiên nếu nhìn lại quá khứ, sự trỗi dậy của Trung Quốc thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có sự góp phần không nhỏ công sức của người Mỹ.
- Thép mạ từ Trung Quốc nhập khẩu ồ ạt, doanh nghiệp kiến nghị Bộ Công Thương
- Thương hiệu giá rẻ Trung Quốc và Nhật Bản đổ bộ Hồng Kông
Trước năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc vận hành theo mô hình kinh tế tập trung, trong đó khu vực tư nhân bị kiểm soát chặt chẽ, thương mại quốc tế gần như đóng cửa và mọi hoạt động kinh tế chủ yếu do nhà nước điều phối. Sự thiếu vắng dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cùng với công nghệ lạc hậu và năng suất lao động thấp, khiến Trung Quốc tụt hậu xa so với các nền kinh tế công nghiệp hóa đang phát triển mạnh mẽ ở châu Á, GDP bình quân đầu người chỉ đạt 156 đô la Mỹ, một con số rất thấp so với các quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc (1.405 đô la) hay Nhật Bản (9.012 đô la), phản ánh tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế.
Bước ngoặt mang tính đột phá chính là việc Mỹ trao cho Trung Quốc Quy chế tối huệ quốc (MFN), lần đầu tiên được áp dụng dưới thời Tổng thống Ronald Reagan vào những năm 1980. Việc hưởng quy chế này đã mở ra cánh cửa cho hàng loạt thỏa thuận thương mại và đầu tư, giúp Trung Quốc nhận được mức thuế quan ưu đãi, tương đương với các đối tác thương mại quan trọng của Mỹ. Không dừng lại ở đó, vai trò của Mỹ còn mở rộng sang đầu tư FDI và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi Trung Quốc từ một nền kinh tế khép kín sang trung tâm sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Những điều kiện thuận lợi mà Mỹ trao cho Trung Quốc
Từ những năm 1980, Mỹ đã thực thi chính sách thương mại ưu đãi đối với Trung Quốc khi tiếp tục duy trì MFN. Với quy mô tiêu dùng lớn nhất thế giới, Mỹ đã trở thành đích đến lý tưởng cho hàng hóa Trung Quốc, từ dệt may, đồ gia dụng cho đến các mặt hàng linh kiện điện tử. Việc tận dụng hiệu quả thị trường rộng lớn này đã giúp Trung Quốc nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất và gia tăng xuất khẩu hàng hóa. Giai đoạn năm 2000-2018, kim ngạch xuất khẩu từ Trung Quốc sang Mỹ đã tăng vọt từ 52,2 tỉ đô la lên gần 480 tỉ đô la, minh chứng rõ nét cho sự bùng nổ xuất khẩu trước khi xảy ra chiến tranh thương mại.
Bên cạnh các ưu đãi thương mại, Trung Quốc còn tận dụng triệt để dòng vốn FDI từ các tập đoàn Mỹ. Vào đầu thập niên 1980, Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh vượt trội về chi phí lao động, đặc biệt trong các ngành sản xuất thâm dụng lao động như lắp ráp ô tô, linh kiện điện tử. Nhận thấy cơ hội có thể giảm thiểu chi phí sản xuất, hàng loạt tập đoàn hàng đầu của Mỹ như General Motors, Intel, Microsoft, Apple đã mở rộng đầu tư vào Trung Quốc thông qua việc xây dựng nhà máy, thành lập liên doanh và ký kết các thỏa thuận hợp tác.
Sự hậu thuẫn từ Mỹ và hệ thống thương mại quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc không chỉ vươn lên thành “công xưởng thế giới” mà còn từng bước kiểm soát các chuỗi cung ứng quan trọng, từ sản xuất linh kiện, lắp ráp đến xuất khẩu.
Cột mốc chuyển mình xảy ra vào năm 2001 khi Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trước đó, Trung Quốc đã tiến hành hàng loạt cải cách sâu rộng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của WTO, bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường và minh bạch hóa chính sách thương mại.
Mỹ, dưới thời Tổng thống Mỹ Bill Clinton, đóng vai trò quan trọng trong việc vận động các quốc gia thành viên WTO chấp thuận tư cách thành viên cho Trung Quốc. Washington tin rằng việc hội nhập của Trung Quốc vào nền kinh tế toàn cầu không chỉ giúp nước này phát triển mà còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp Mỹ thông qua việc mở rộng thị trường tiêu thụ và nguồn cung ứng lao động giá rẻ.
Gia nhập WTO đánh dấu bước ngoặt lớn đối với Trung Quốc khi hàng hóa nước này được hưởng các ưu đãi thuế quan trên phạm vi toàn cầu. Xuất khẩu tăng trưởng bùng nổ, giúp Trung Quốc tích lũy nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ, từ đó đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, giáo dục và nghiên cứu phát triển (R&D). Sự hậu thuẫn từ Mỹ và hệ thống thương mại quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc không chỉ vươn lên thành “công xưởng thế giới” mà còn từng bước kiểm soát các chuỗi cung ứng quan trọng, từ sản xuất linh kiện, lắp ráp đến xuất khẩu.
Nhìn lại quá trình phát triển này, có thể thấy rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là một hiện tượng đơn thuần mà là kết quả của sự kết hợp giữa chính sách thương mại ưu đãi, dòng vốn FDI từ Mỹ, những lợi thế về chi phí lao động và năng lực sản xuất. Những yếu tố này đã giúp Trung Quốc từng bước củng cố vị thế, từ một nền kinh tế phụ thuộc vào lao động giá rẻ trở thành một cường quốc sản xuất với sức ảnh hưởng toàn cầu. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào nhận được dòng vốn FDI từ nước ngoài cũng có thể vượt qua được định mệnh gia công để có thể vươn lên làm chủ công nghệ để xây dựng thương hiệu sản xuất và xa hơn nữa là một nền công nghệ phát triển sau này.
Trung Quốc đã làm gì để hấp thụ công nghệ FDI từ Mỹ
Ngay từ khi bắt đầu công cuộc “cải cách và mở cửa” vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc đã triển khai một chiến lược rõ ràng nhằm thu hút dòng vốn FDI và tận dụng công nghệ tiên tiến từ phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Khác với nhiều quốc gia đang phát triển chỉ đơn thuần chào mời FDI mà không có cơ chế kiểm soát, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách chặt chẽ nhằm đảm bảo rằng mỗi khoản đầu tư từ nước ngoài không chỉ mang lại vốn mà còn phải đi kèm với chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất và năng lực quản trị tiên tiến. Chiến lược “đổi thị trường lấy công nghệ” này đặc biệt thành công trong các ngành công nghiệp trọng điểm như ô tô, hàng không, điện tử.
Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách chặt chẽ nhằm đảm bảo rằng mỗi khoản đầu tư từ nước ngoài không chỉ mang lại vốn mà còn phải đi kèm với chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất và năng lực quản trị tiên tiến. Chiến lược “đổi thị trường lấy công nghệ” này đặc biệt thành công trong các ngành công nghiệp trọng điểm như ô tô, hàng không, điện tử.
Một trong những chính sách đặc biệt mà Trung Quốc áp dụng là yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài phải thiết lập liên doanh với doanh nghiệp nhà nước (SOE) hoặc doanh nghiệp nội địa nếu muốn tiếp cận thị trường Trung Quốc. Trong nhiều trường hợp, Trung Quốc đặt ra các điều kiện nghiêm ngặt, yêu cầu các tập đoàn đa quốc gia phải cung cấp tài liệu kỹ thuật, chia sẻ bí quyết sản xuất và đào tạo nhân sự địa phương. Bên cạnh đó, áp dụng tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp nước ngoài khi yêu cầu họ sử dụng linh kiện và nguyên liệu từ nhà cung cấp trong nước. Điều này buộc các tập đoàn Mỹ phải phát triển chuỗi cung ứng ngay tại Trung Quốc, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp nội địa.
Nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và phát triển hàng loạt đặc khu kinh tế như Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn với chính sách thuế ưu đãi, thủ tục tinh gọn và hạ tầng hiện đại. Những khu vực này nhanh chóng trở thành điểm đến lý tưởng cho các tập đoàn công nghệ Mỹ, giúp họ thuận lợi xây dựng nhà máy và trung tâm R&D. Foxconn đã nhanh chóng thiết lập các hợp đồng chiến lược với các công ty công nghệ này: họ chịu trách nhiệm thiết kế sản phẩm, đưa ra các yêu cầu khắt khe về chất lượng, tiến độ sản xuất và tốc độ xuất xưởng.
Trong khi đó, Foxconn đảm nhiệm toàn bộ quy trình sản xuất, lắp ráp, đóng gói và logistics. Xung quanh các nhà máy Foxconn là hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ, gồm các doanh nghiệp cung ứng linh kiện, kiểm định chất lượng và dịch vụ hậu cần. Mô hình này giúp tối ưu chuỗi cung ứng, đẩy nhanh tiến độ sản xuất và tạo nền tảng ban đầu cho các doanh nghiệp nội địa được tiếp cận và làm chủ công nghệ hiện đại.
Tận dụng nguồn vốn dồi dào từ xuất khẩu và FDI, các doanh nghiệp Trung Quốc đẩy mạnh mua lại các công ty phương Tây, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, để sở hữu bằng sáng chế và bí quyết kỹ thuật. Chiến lược này giúp họ đẩy nhanh quá trình nội địa hóa, làm chủ công nghệ cốt lõi và giảm phụ thuộc nước ngoài. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc triển khai chương trình Made in China 2025, tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như bán dẫn, hàng không, robot, xe điện và công nghệ cao. Nhà nước rót ngân sách lớn vào R&D, đồng thời thành lập Quỹ Đầu tư bán dẫn quốc gia và Quỹ Đổi mới sáng tạo nhằm nâng cấp công nghệ nội địa sau khi tiếp nhận và cải tiến từ khu vực FDI.
Trung Quốc đã khéo léo sử dụng FDI như “bệ phóng” bằng các chính sách vừa “mời chào” vừa “ràng buộc” nhà đầu tư nước ngoài phải chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, xây dựng chuỗi cung ứng nội địa. Qua đó, doanh nghiệp Trung Quốc tiếp cận những công nghệ cốt lõi của Mỹ và phương Tây, rút ngắn hàng chục năm R&D và “đi tắt đón đầu” trong công nghiệp hiện đại. Quá trình này là mấu chốt giúp Trung Quốc vươn lên thành cường quốc sản xuất - công nghệ.
Nhưng chính sự lớn mạnh quá nhanh của Trung Quốc cũng tạo ra nhiều mâu thuẫn, đặc biệt đối với Mỹ, trong các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế ngày nay. Nói khác hơn, Mỹ đã không ngờ “kraken” mà họ phát triển ngày xưa thành trung tâm sản xuất đã phát triển vượt tầm kiểm soát và trở thành đối trọng thực sự của họ trong thế kỷ 21 này.
(*) CFA
(**) UEL
Đừng nhầm. Không ai giúp ai gì cả. Mỹ là thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới. TQ là nhà buôn lanh lợi bậc nhất toàn cầu. Hai bên cung – cầu gặp nhau. Quan trọng hơn nhau ở chỗ năng lực chớp lấy thời cơ mà thôi. Nếu không, ta vẫn mãi là người đến sau ?
Đúng 100/100. Người Trung Quốc rất giỏi về làm thương. Các khu ChinaTown trên thế giới đã nói lên điểm đó.
Trung Quốc đã giúp Mỹ vượt qua Liên Xô cũng cố vị trí siêu cường bằng thị trường, sức lao động, khoán sản… tư cách MFN của Trung Quốc trễ hơn và thấp hơn nhiều so với MFN trao cho các nước đồng minh Mỹ như Ấn Độ, Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản….