Thứ sáu, 17/01/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Nàng công nương họ Nguyễn

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Nàng công nương họ Nguyễn

Thành phố Nagasaki.

(TBKTSG) - LTS: Tiếp nối bài “Một thoáng Phù Tang” của TS. Trương Văn Tân đăng trên TBKTSG số 7-2009 ra ngày 5-2-2009, chúng tôi giới thiệu tiếp ký sự thăm nước Nhật của tác giả, phần nói về một người con gái Việt Nam làm dâu nước Nhật cách đây hơn 400 năm.

... Sự ngẫu nhiên lịch sử đã đưa đẩy Nagasaki trở thành giao điểm của hai nền văn hóa Đông và Tây, đi song song và bổ sung nhau, tạo thành một nét đặc thù văn hóa không tìm thấy ở các thành phố khác của Nhật.

Trong buổi sáng đầu tiên lành lạnh ở thành phố cảng này, tôi đi xe điện tìm đến con đường lịch sử, Teramachi-dori (đường xóm Chùa).

Cô dâu quý tộc từ nước Nam xa xôi

Ở giữa con đường xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa này có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quý tộc và giai cấp võ sĩ “samurai” vài trăm năm trước.

Dựa theo thông tin của một ông bạn tại Nagoya, tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai.

Đại Âm Tự là một trong những ngôi chùa lớn tại Nagasaki. Tiếc rằng, trận hỏa hoạn năm 1959 đã thiêu hủy toàn thể ngôi chùa. Chùa được xây cất lại nhưng không còn vẻ cổ kính như xưa.

Mộ phần dòng họ Araki.

Tôi đi đến văn phòng chùa hỏi thăm địa điểm ngôi mộ cổ. Bà quản lý tử tế chỉ dẫn và nhanh nhẹn lướt qua một số tài liệu, in ra cho tôi một trang nói về phần mộ của dòng họ Araki. Thì ra, ngôi mộ được chỉ định là “Sử tích của thành phố Nagasaki”. Tôi thầm phục cách lưu trữ tài liệu, phân loại và xử lý văn bản lịch sử của người Nhật. Chỉ trong vòng vài phút, một người quản lý bình thường của một ngôi chùa có thể tìm ra tên tuổi người quá cố qua đời vài trăm năm trước giữa hàng chục ngàn cái tên khác.

Theo lời chỉ dẫn, tôi leo lên hơn 200 bực đá dọc theo triền núi, quẹo trái quẹo phải, đi qua hàng trăm ngôi mộ cổ được sắp xếp thứ tự theo từng gia tộc, phần lớn đã rêu phong, những chữ khắc vào đá cũng đã phai mờ. Ở mỗi phần mộ tôi nhận thấy có bia đá nhỏ khắc chữ “Thổ thần” giữ mộ. Một tập tục Trung Quốc ảnh hưởng đến phong tục của người Nagasaki.

Tôi không thấy những bó hoa tươi, dấu vết hương khói hay sự lui tới thường xuyên của con người, chỉ có những làn gió vi vu thổi qua ngọn đồi làm không gian vốn đã u tịch lại càng đượm thêm một màu thê lương. Có lẽ, vì là mộ cổ con cháu của người quá cố đã ly tán khắp nơi, không còn ai còn nhớ đến quá khứ và trở lại chăm sóc mộ phần.

Mộ phần nhà Araki cũng dễ tìm, trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật (?) Wakaku (từ Hán Việt: Vương Gia Cữu). Đứng trước ngôi mộ tôi chấp tay cúi đầu, hy vọng rằng sẽ có hài cốt của một công nương quyền quý nằm trong lòng đất này.

Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro vả vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên.

Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang sao chụp từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku đã tự đặt thêm một cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san (anio = A Nương theo từ Hán Việt, có thể dịch là “cô nương”). Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm.

Cuộc đời của Araki Sotaro và công nương Việt Nam Wakaku sẽ có rất ít người biết nếu chỉ dựa vào bảng tiểu sử ở một nghĩa trang heo hút và tài liệu “đóng bụi” của Đại Âm Tự. Nhưng câu chuyện tình Nhật - Việt này đã được mang ra trình bày và giải thích bằng hai thứ tiếng Nhật và Anh cùng với những mẩu chuyện khác về Nagasaki ở thế kỷ 17, 18 tại địa điểm tham quan lịch sử Dejima (đề cập ở phần sau).

Tài liệu Nhật còn cho biết khi nàng Wakaku cập bến Nagasaki, một cuộc đón tiếp long trọng được tổ chức để đón cô dâu quý tộc đến từ nước Nam xa xôi. Trang phục của cô dâu đã gây một ấn tượng đặc biệt cho người dân Nagasaki và từ đó về sau nó trở thành một tiết mục thời trang cho lễ hội (matsuri) hàng năm của thành phố đến tận ngày hôm nay. Trong khi đó, lịch sử Việt Nam không có một dòng chữ nào đề cập đến số phận của nàng công nương xa xứ họ Nguyễn.

Phải công nhận rằng người Nhật có cách quảng bá lịch sử rất sáng tạo và khoa học. Ở những địa điểm du lịch, họ dựng bảng giải thích các di tích với hình ảnh, bản đồ, niên biểu, và lời dịch tiếng Anh rất chính xác, gần đây thêm tiếng Hoa và tiếng Hàn. Đối với những sự kiện lịch sử lớn lao, đặc biệt là vào thời Mạc Phủ và Minh Trị Duy Tân, họ nghiên cứu, sưu tập tư liệu làm những bộ phim tập trường thiên chiếu trên kênh truyền hình quốc gia NHK để tôn vinh một thời đại, một vương phi hay một nhân vật samurai anh hùng.

Vì tính chất hấp dẫn của những bộ phim samurai lịch sử này, phim chưởng Hồng Kông hay Trung Quốc với những màn đánh nhau loạn xị, vô cảm nằm ngoài thị hiếu của khán giả và không bao giờ xâm nhập được vào thị trường truyền hình và điện ảnh Nhật Bản. Ngoài ra, kênh truyền hình giáo dục NHK có những giờ lịch sử được trình bày sống động theo lối “kể chuyện cổ tích” xen vào những khúc phim miêu tả (re-enactment) hay phim tài liệu ngắn rất cuốn hút người xem.  

Nagasaki: Dejima

Dejima là hòn đảo nhân tạo, hình thành thương cảng cho phép người Hà Lan lui tới buôn bán.

Dejima là một địa danh lịch sử của Nagasaki và của Nhật Bản. Nói đến lịch sử cận đại Nhật Bản thì phải đề cập đến Dejima. Cũng không phải quá lời khi gọi Dejima là cái nôi của khoa học kỹ thuật cận đại Nhật Bản.

Trong suốt thời kỳ “tỏa quốc” (bế quan tỏa cảng) của chính quyền Mạc Phủ, nước Nhật tự cấm vận chính mình, không giao thương với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, chính quyền Mạc Phủ khôn ngoan mở ra một “cửa sổ” nhỏ để nhìn thế giới. Đó là Dejima.

Dejima là một hòn đảo nhân tạo rộng 15.000 mét vuông được chính quyền Mạc Phủ xây cất để cho người Hà Lan mướn và lập văn phòng của các công ty thương thuyền, nhà ở cho nhân viên. Người Hà Lan được phép đi lại vì họ chỉ buôn bán và không liên hệ đến các hoạt động truyền giáo. Trong những đoàn thương nhân này, có những vị bác sĩ đến đây để chăm sóc sức khỏe của nhân viên và thủy thủ.

Những sĩ phu yêu nước không phân biệt giai cấp từ Edo (Tokyo), Kyoto, Osaka, đã lũ lượt kéo về Nagasaki đến Dejima tìm gặp các vị bác sĩ này để “tầm sư học đạo”.

“Đạo” ở đây là Lan học (cái học của Hà Lan), có nghĩa là cái học của khoa học kỹ thuật phương Tây. Năm 1774 bộ sách y khoa về giải phẫu học tiếng Nhật đầu tiên và cũng là quyển sách khoa học đầu tiên, “Giải thể tân thư”, ra đời dựa theo nguyên bản tiếng Hà Lan.

Từ đó Lan học và phong trào dịch thuật lan rộng cả nước nhanh chóng như lửa rừng, đồng thời đẩy lùi cái học “tứ thư, ngũ kinh” vào bóng tối. Những môn học khác như thực vật học, dược học, nông học, vật lý, hóa học, toán học lần lượt được phổ biến. Thời thế tạo anh hùng. Vào đầu thế kỷ 19, những nhà Lan học lỗi lạc xuất hiện, lập trường học đào tạo nhân tài, đặt một nền tảng khoa học kỹ thuật cho cuộc vận động Minh Trị Duy Tân sau này.

Dejima ngày nay.

Ngày nay Dejima không phải là hòn đảo nữa vì xung quanh người ta đã lấp đất lấn ra biển. Trên địa điểm cũ những ngôi nhà xưa được phục nguyên và sinh hoạt của người Hà Lan được tái hiện theo tài liệu lịch sử. Bộ sách “Giải thể tân thư” và bộ từ điển đầu tiên Nhật - Hán - Anh - Hà Lan viết bằng tay được trưng bày tại đây cho thấy sự cầu tiến và kiên nhẫn của các nhà Lan học.

Trong phòng triển lãm, tôi chú ý đến cái đồng hồ quả lắc, ống nhòm thiên văn, cây súng trường, khẩu súng lục chế tạo vài trăm năm trước mô phỏng theo Hà Lan, Bồ Đào Nha, được cải thiện cho thích hợp với người Nhật Bản.

Tinh thần phân tích, suy diễn, cải tiến và khiêm tốn học hỏi thấm sâu trong tư duy người Nhật đã giúp họ phát triển mọi mặt. Vào thế kỷ thứ 8, người Nhật đã sang nhà Đường (Trung Quốc) du học, vay mượn Hán tự làm văn tự của mình và cách tổ chức hành chánh của triều đình nhà Đường để an bang trị quốc. Họ cải thiện Hán tự và dùng cho đến ngày hôm nay mà không mang một chút mặc cảm vay mượn. Trái lại, họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phong phú hóa Hán tự và hội nhập văn tự này vào ngôn ngữ khoa học thế giới.

Kể từ khi Lan học xuất hiện, người Nhật đã dùng tiếng Hán để dịch những từ ngữ y học, khoa học tự nhiên và nhân văn. Những thuật ngữ như: vật lý, hóa học, số học, vi phân, tích phân, phương trình, quỹ đạo, lượng tử... hay trong khoa học nhân văn: kinh tế, chính trị, dân chủ, xã hội, chủ nghĩa, cộng sản, là những từ Hán Nhật mà sau này ông thầy Trung Quốc phải vay mượn lại “học trò” Nhật để bắt kịp thế giới.

Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích, suy diễn, cải tiến và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Hai ngày tại Nagasaki vẫn chưa đủ, nhưng đã đến lúc phải chia tay. Trước khi từ giã thành phố cảng lãng mạn này, tôi lững thững ra ngoài bến cảng nhìn Nagasaki lần cuối. Mây vẫn lướt thướt bay, sóng vẫn vỗ rì rào và núi vẫn sừng sững vươn lên. Một dải sơn hà đã chứng kiến biết bao cảnh thăng trầm, biết bao tao nhân mặc khách, anh hùng hào kiệt đến đến đi đi. Ánh sáng bình minh của khoa học đã chiếu trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này và những con người Nhật Bản cầu tiến đã sớm thức tỉnh nắm bắt lấy cơ hội làm ra những trang sử oai hùng cho đất nước.

Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa. Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình ca của một thời du học, “Nagasaki wa kyo mo ame datta” (Nagasaki trời hôm nay mưa cũng đã rơi)...

TRƯƠNG VĂN TÂN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới