Thứ Năm, 11/09/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Ngân hàng Việt trước ngưỡng cửa trung tâm tài chính quốc tế

Vân Phong

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG Online) - Thời điểm Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đi vào hoạt động cũng là lúc các ngân hàng thương mại trong nước chịu áp lực cạnh tranh đa tầng với các định chế tài chính quốc tế.

Định lượng khó khăn

Nghị quyết số 222/2025 của Quốc hội về Trung tâm Tài chính quốc tế tại Việt Nam ở TPHCM và thành phố Đà Nẵng là bước đi chiến lược, mở “cánh cửa” đưa Việt Nam tham gia vào thị trường tài chính toàn cầu. Trước cơ hội lớn, chính quyền TPHCM và Đà Nẵng đều “tăng tốc” chuẩn bị, hướng tới hình thành Trung tâm Tài chính quốc tế trong tương lai gần.

Một góc Trung tâm Tài chính Quốc tế Sài Gòn Marina. Ảnh: Lê Vũ

Trong bối cảnh trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng công bố dự thảo Nghị định quy định về cấp phép thành lập và hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối, phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Trung tâm Tài chính quốc tế tại Việt Nam, để lấy ý kiến công chúng, qua đó hoàn thiện hành lang pháp lý cho mô hình trung tâm.

Theo đó, cơ quan soạn thảo đề xuất điều kiện về tổng tài sản với các đơn vị muốn thành lập ngân hàng thương mại trong trung tâm, gồm: tối thiểu 100.000 tỉ đồng với ngân hàng 100% vốn trong nước; tối thiểu 10 tỉ đô la Mỹ với ngân hàng 100% vốn nước ngoài; tối thiểu 20 tỉ đô la Mỹ với chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Các ngân hàng cũng phải kinh doanh có lãi trong ba năm liền trước năm đưa ra đề nghị lập ngân hàng con tại trung tâm. Đồng thời, đảm bảo nợ xấu không vượt quá 3% và tuân thủ các tỷ lệ an toàn, có hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả. Hơn nữa, chủ sở hữu phải có văn bản cam kết với nội dung “Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, bảo đảm không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng”.

Những điều kiện trên hoàn toàn nằm trong khả năng của không ít ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh đa tầng với các định chế tài chính quốc tế khiến một số đơn vị bày tỏ sự e ngại.

Tại một hội thảo về vai trò của hệ thống ngân hàng trong xây dựng trung tâm tài chính, bà Trương Thị Thu Ba, Phó giám đốc, Ban định chế tài chính của BIDV, cho biết khoảng cách quá lớn về quy mô tổng tài sản không những thể hiện nguồn lực hạn chế của các ngân hàng Việt Nam, mà còn phản ánh thế khó khi đầu tư gia tăng năng lực cạnh tranh.

“BIDV là một trong những ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn nhất Việt Nam, nhưng chỉ bằng khoảng 1/60 của Canadian Imperial Bank of Commerce - CIBC (một ngân hàng của Canada)”, đại diện BIDV so sánh.

Không chỉ bất lợi về quy mô tài sản và nguồn vốn, khoảng trống về hạ tầng dữ liệu, công nghệ và tích hợp số cũng là yếu tố khiến ngân hàng Việt Nam khó cạnh tranh với các định chế tài chính quốc tế tại trung tâm tài chính.

“Hạ tầng dữ liệu của Việt Nam còn yếu, có khoảng cách lớn với thế giới. Ngoài ra, hạ tầng kết nối thanh toán xuyên biên giới của chúng ta cũng chưa mạnh bằng các nước. Những vấn đề này rất cần vai trò dẫn dắt của cơ quan quản lý”, bà Ba nói.

Từ góc nhìn chuyên gia, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, lo ngại quá trình tự do hóa tài chính, đặc biệt trong khuôn khổ xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn trước rủi ro nợ xấu tiềm ẩn và năng lực quản trị rủi ro còn hạn chế.

Với yếu tố nợ xấu, số liệu chính thức cho thấy tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn trong ngưỡng an toàn, nhưng phần lớn là nhờ kỹ thuật kế toán như: giãn nợ, cơ cấu lại nợ, chuyển nợ xấu sang VAMC – đơn vị chủ yếu đóng vai trò “kho chứa” tạm thời. “Khi thị trường biến động hoặc dòng vốn đảo chiều, những khoản nợ này dễ trở thành gánh nặng thanh khoản, dẫn đến khủng hoảng niềm tin và nguy cơ sụp đổ dây chuyền”, ông Tuấn lưu ý.

Với yếu tố năng lực quản trị rủi ro, một số ngân hàng nhỏ hoặc có yếu tố sở hữu Nhà nước cao mới ở giải đoạn đầu áp dụng chuẩn mực Basel II, trong khi nhiều ngân hàng nước ngoài đã triển khai đã Basel III để tăng cường khả năng chống chịu. Hơn nữa, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của một số ngân hàng ở mức sát ngưỡng tối thiểu và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn. Đây là mô hình rủi ro, từng khiến các ngân hàng Hàn Quốc và Indonesia lao đao trong các cuộc khủng hoảng khu vực.

Xây dựng lộ trình tự do hoá tài chính trong dài hạn

Một trong những nguyên tắc nền tảng để tự do hóa tài chính thành công là phải được thực hiện từng bước, có chọn lọc và gắn với mức độ sẵn sàng về thể chế, giám sát và năng lực thị trường nội địa. Do đó, tự do hóa tài chính không thể đi trước cải cách thể chế, mà phải có lộ trình, theo các chuyên gia.

Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam được triển khai tạI TPHCM và thành phố Đà Nẵng. Ảnh: LÊ VŨ

Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng việc dỡ bỏ các rào cản tài chính cần đi kèm điều kiện rõ ràng, được thực hiện theo từng giai đoạn với các tiêu chí “đóng – mở ” cụ thể dựa trên chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô, mức độ hoàn thiện thể chế và khả năng giám sát rủi ro. Điển hình là Chile, với mô hình kiểm soát dòng vốn ngắn hạn qua các công cụ như yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc quy định thời gian tối thiểu nắm giữ. Nhờ vậy, quốc gia này giữ được ổn định tài chính, kiểm soát tốt lạm phát, là nền tảng thu hút dòng vốn chất lượng, ít biến động.

Song song với tiến hình mở cửa, cần lành mạnh hoá hệ thống tài chính – ngân hàng qua việc xử lý nợ xấu một cách thực chất, minh bạch và có hệ thống. Hơn nữa, cần hoàn thành triển khai đầy đủ Basel II, tiến tới áp dụng chọn lọc các cụ trụ Basel III với các ngân hàng có vai trò hệ thống (D-SIBs), gồm chuẩn về đòn bẩy tài chính, vốn chống chu kỳ và thanh khoản ngắn - dài hạn.

“Áp dụng triệt để các chuẩn mực quốc tế như IFRS9 trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tin dụng, nhằm phản ánh trung thực chất lượng tài sản. Ngoài ra, cơ cấu lại VAMC theo hướng trở thành tổ chức xử lý tài sản chuyên nghiệp, hoạt động theo cơ chế thị trường và có quyền mua, bán, tái cơ cấu, phát mãi tài sản độc lập”, ông Tuấn nói và cho rằng cần phát triển thị trường thứ cấp cho nợ xấu, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư và mua – bán.

Đại diện BIDV gợi ý mô hình trung tâm tài chính mới nên tập trung vào các thế mạnh của Việt Nam như lực lượng lao động trẻ, giỏi toán, có khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính với chi phí chỉ bằng 30-40% so với Singapore hoặc Hong Kong.

Đồng thời, Việt Nam có thể tham khảo mô hình trung tâm tài chính Gift City của Ấn Độ vì quốc gia này có mức độ phát triển kinh tế và chất lượng nguồn nhân lực tương đồng với Việt Nam. Thực tế, dù mới thành lập 10 năm, nhưng Gift City đã thu hút 450 định chế tài chính đến đầu tư.

 

 

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới