(KTSG) - Từ sự phân tích cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, cần nhìn lại quan niệm và chính sách công nghiệp hóa hiện nay...
- Nhìn kinh tế Trung Quốc tìm giải pháp cho kinh tế Việt Nam
- Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam sắp tới sẽ ra sao?
Cấu trúc về thành phần kinh tế trong GDP
Tăng trưởng GDP bình quân trong giai đoạn 2010-2022 khoảng 6,1%. Đây có thể là mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhưng nhìn sâu hơn vào cấu trúc sở hữu trong GDP thì thấy đóng góp vào GDP của Việt Nam cơ bản do khu vực kinh tế ngoài nhà nước, mà cơ bản là khu vực kinh tế cá thể. Trong suốt giai đoạn 2010-2015, tỷ lệ giá trị gia tăng của khu vực kinh tế cá thể luôn ổn định ở mức trên 31% trong GDP, tuy nhiên hiện nay trên trang web của Tổng cục Thống kê (TCTK) không chia ra khu vực kinh tế cá thể riêng biệt mà gộp chung vào khu vực kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm khu vực doanh nghiệp, hợp tác xã và khu vực kinh doanh cá thể). Theo số liệu của TCTK, hiện tại cơ cấu giá trị tăng thêm của khu vực ngoài nhà nước trong GDP không khác bao nhiêu so với năm 2010 (tăng 0,3 điểm phần trăm); cơ cấu giá trị tăng thêm của khu vực nhà nước trong GDP giảm khoảng 3 điểm phần trăm và cơ cấu giá trị tăng thêm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong GDP tăng khoảng 5 điểm phần trăm trăm so với năm 2010. Số liệu này cho thấy cơ cấu theo thành phần sở hữu nhà nước và ngoài nhà nước hầu như không đổi, giá trị tăng thêm của khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm trên dưới 10% GDP - điều này phần nào lý giải việc số lượng doanh nghiệp trong nước tăng hay giảm thì đó chỉ là về số lượng còn về giá trị dường như không thay đổi gì. Tuy nhiên, tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực FDI tăng rõ rệt.
Cấu trúc về ngành trong GDP
Tính toán từ bảng cân đối liên ngành của Việt Nam cho thấy nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cùng nhóm ngành dịch vụ có chỉ số lan tỏa đến giá trị tăng thêm của nền kinh tế tốt nhất, nhưng tiếc rằng cơ cấu về giá trị tăng thêm của nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm mạnh theo thời gian. Nếu năm 2010 tỷ trọng giá trị tăng thêm của nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,4% GDP thì đến năm 2022 tỷ lệ này chỉ còn 11,8% GDP; trong khi cơ cấu giá trị tăng thêm của nhóm ngành dịch vụ từ năm 2010-2022 không thay đổi.
Cũng từ bảng cân đối liên ngành của Việt Nam, có thể thấy tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị sản xuất chung của nền kinh tế đều sụt giảm trong giai đoạn 2015-2022 so với giai đoạn 2007-2014.
Đặc biệt, ở nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thì tỷ lệ này giảm từ 34,7% trong giai đoạn 2007-2014 xuống chỉ còn 21,7% trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số lan tỏa và độ nhạy đối với nền kinh tế thấp và ngày càng thấp. Điều đó cho thấy phần giá trị tăng thêm của nhóm ngành này mà nền kinh tế Việt Nam nhận được ngày càng nhỏ đi khá nhiều so với giai đoạn trước. Nó cũng cho thấy tình hình sản xuất của nhóm ngành này tại Việt Nam ngày càng mang nặng tính gia công, lắp ráp một cách toàn diện hơn.
Tỷ lệ này đối với nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy không giảm mạnh như nhóm ngành công nghiệp, nhưng cũng có xu hướng giảm (từ 68% giai đoạn 2007-2014 xuống 63% giai đoạn 2015-2022).
Công nghiệp hóa như hiện nay có thể chỉ làm đất đai bị sử dụng không hiệu quả, tài nguyên mất đi và môi trường bị hủy hoại. Hơn nữa cấu trúc kinh tế này khi tham gia hội nhập càng sâu càng bộc lộ nhiều điểm yếu.
Cấu trúc ngành như vậy cho thấy hiệu quả sản xuất của các ngành sản xuất vật chất của Việt Nam ngày càng kém, sản xuất dù nhiều, xuất khẩu dù nhiều nhưng phần Việt Nam nhận được ngày càng ít.
Như vậy, ý niệm về công nghiệp hóa như vẫn đang hiểu có thể là không hoàn toàn đúng; công nghiệp hóa nên hiểu ở khía cạnh hàm lượng các sản phẩm công nghiệp chế biến được các ngành khác trong nền kinh tế sử dụng làm đầu vào trong quá trình sản xuất là bao nhiêu? Công nghiệp hóa như hiện nay có thể chỉ làm đất đai bị sử dụng không hiệu quả, tài nguyên mất đi và môi trường bị hủy hoại. Hơn nữa cấu trúc kinh tế này khi tham gia hội nhập càng sâu càng bộc lộ nhiều điểm yếu. Cấu trúc kinh tế như hiện nay thì hội nhập không phải là điều để có thể mừng vui.
Tính toán từ mô hình cân bằng tổng thể trong hai giai đoạn trên cho thấy xuất khẩu tuy làm tăng sản xuất xấp xỉ 12% nhưng lan tỏa đến giá trị tăng thêm giảm 13,3% và quan trọng hơn là lan tỏa đến nhập khẩu tăng rất mạnh, tới 52%.
Điều này khẳng định xuất khẩu ở thời điểm hiện nay cơ bản là xuất khẩu tài nguyên, sản phẩm thô, sản phẩm gia công, mà còn gây nên nhập siêu mạnh. Trên thực tế, các loại hàng hóa nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho khu vực FDI, một khu vực mà hầu hết máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu... dùng cho sản xuất chủ yếu phải nhập khẩu, và sau đó lại phục vụ cho xuất khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu như điện tử; máy tính và linh kiện; điện thoại và các loại linh kiện; hàng dệt may; giày dép... mang nặng tính lắp ráp, gia công, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp, hiệu quả cho nền kinh tế cũng không cao.
Năm 2010 xuất khẩu của khu vực FDI chiếm 54,2% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa, tỷ lệ này tăng lên xấp xỉ 74,3% trong năm 2022. Điều này phần nào cho thấy khu vực FDI đang dần lấn lướt hoàn toàn khu vực trong nước nhưng hàm lượng giá trị tăng thêm của khu vực FDI đóng góp vào nền kinh tế không tương xứng. Mặt khác, điều này cũng cho thấy sản xuất của khối doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn, có thể là về thuế, phí.