(KTSG Online) - Muốn thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, cần sớm gia tăng khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), không có nhiều tài sản thế chấp.
Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp tư nhân luôn "khát vốn"
Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm - chiếm khoảng 85% tổng số lao động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận nguồn vốn cho sản xuất – kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế.

Bốn lần đi vay vốn ngân hàng, là bốn lần ông Đinh Duy Hưng, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Duy Hưng, bị bắt buộc mua bảo hiểm. “Số tiền mua bốn gói bảo hiểm, với một doanh nghiệp siêu nhỏ, là không nhỏ. Trong khi nếu được sử dụng để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, sẽ mang lại hiệu quả thiết thực hơn nhiều” ông Hưng nói.
Thậm chí, dù mua bảo hiểm để được chấp thuận vay vốn, nhưng doanh nghiệp của ông Hưng vẫn bị nhân viên ngân hàng “bỏ quên”, không chăm sóc, hỗ trợ hay tìm hướng giúp phát triển sau khi hoàn thành giải ngân khoản vay.
Với Công ty cổ phần đầu tư thương mại Hà Thành, ông Nguyễn Đức Xuân, Chủ tịch HĐQT, kể từng nhận được yêu cầu chứng minh khả năng trúng thầu với các gói thầu cung cấp thiết bị y tế trị giá khoảng 50 tỉ đồng, cùng nguồn tài sản bảo đảm, khi tìm tới ngân hàng.
Tuy nhiên, việc chứng minh cũng không đơn giản bởi chủ đầu tư không thể đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp trúng thầu vay vốn. Do đó, đơn vị phải “dựa” vào một doanh nghiệp lớn, đồng nghĩa với bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Theo kết quả khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm khoảng 50% tổng dư nợ tín dụng, tương đương gần 7 triệu tỉ đồng. Tuy nhiên, có 20% tín dụng đổ vào lĩnh vực bất động sản, và một tỷ lệ tương đương cho lĩnh vực tiêu dùng.
Do đó, các doanh nghiệp sản xuất thuộc các lĩnh vực then chốt, gồm nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, logistics vẫn “khát vốn” là điều dễ hiểu. Trong đó, có 45% số DNNVV tham gia trả lời khảo sát cho biết gặp trở ngại khi vay vốn, do không có tài sản bảo đảm hoặc không đủ tiêu chuẩn hồ sơ tài chính.
Không chỉ vướng ở kênh vốn tín dụng, doanh nghiệp tư nhân cũng chỉ huy động được khoảng 13% vốn qua thị trường chứng khoán, con số khiêm tốn so với khoảng 40– 60% ở các quốc gia phát triển. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm cũng còn ít, chỉ khoảng 30 quỹ đang hoạt động và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghệ, trong khi các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, logistics vẫn “khát vốn”.
Từ góc nhìn chuyên gia, PGS. TS Nghiêm Thị Thà, Tổng Thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), cho rằng điểm nghẽn vốn cho khu vực kinh tế tư nhân xuất phát từ việc hệ thống pháp lý thiếu đồng bộ, chính sách khuyến khích đầu tư tài chính dài hạn và vốn mạo hiểm chưa đủ hấp dẫn, thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và công cụ đánh giá năng lực tài chính.
Bên cạnh đó, các DNNVV, chiếm tỷ trọng 98% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế, vẫn phải chịu mức lãi suất vay thương mại, dao động khoảng 9-11%/năm, cao hơn mặt bằng chung trong khu vực ASEAN là 6-7%/năm.
Từ góc độ đơn vị cung cấp vốn, ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc ACB, cho biết "tài sản thế chấp, định giá và minh bạch thuế là ba rào cản", khiến DNNVV khó tiếp cận vốn vay. Thậm chí, cơ chế bảo lãnh tín dụng, vốn được kỳ vọng hỗ trợ khối doanh nghiệp yếu thế, cũng không theo kịp tình hình thực tế.
“Bảo lãnh tín dụng cần xuất phát từ nhu cầu thực chất của doanh nghiệp nhỏ, đồng thời cần được mở rộng phạm vi áp dụng, không nên giới hạn trong hình thức bảo lãnh khoản vay”, ông Phát nêu vấn đề
Kéo gần khoảng cách giữa doanh nghiệp và ngân hàng
Hiểu những khó khăn của khu vực kinh tế tư nhân, nên không lâu sau khi Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị được ban hành, ACB đã đưa loạt chính sách đặc biệt xoay quanh bốn vấn đề: nguồn vốn, chuyển đổi số, mở rộng thị trường, phát triển bền vững.
Theo đó, ngân hàng triển khai gói hỗ trợ với tổng quy mô 40.000 tỉ đồng, gồm 20.000 tỉ đồng cho DNNVV; 20.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp lớn đầu tư hạ tầng, công nghệ số để thúc đẩy tín dụng theo chuỗi. Mức lãi suất cho vay cũng thấp hơn mức lãi suất thông thường ít nhất 2% và không yêu cầu tài sản thế chấp, ưu tiên cho doanh nghiệp xuất khẩu.
VietABank cũng ký hợp đồng khung cho vay gián tiếp với Quỹ Phát triển DNNVV (SMEDF) để hỗ trợ nhóm này vay vốn với mức lãi suất chỉ từ 1,2%/năm cho khoản vay ngắn hạn và 4,4%/năm cho khoản vay trung dài hạn. Đồng thời, triển khai chương trình "Đồng hành cùng SMEs" với tổng hạn mức ưu đãi lên đến 500 tỉ đồng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP, BIDV cũng áp dụng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách Nhà nước thông qua ngân hàng, giúp giảm chi phí vốn với doanh nghiệp đủ điều kiện.

Nhưng theo đại diện một số ngân hàng, điều họ và các doanh nghiệp (bên vay vốn) thực sự chờ đợi là quyết tâm cắt giảm và số hóa thủ tục hành chính của Đảng và Chính phủ. Theo đó, dù cơ chế "xin – cho" dần được loại bỏ, nhưng chừng nào yếu tố con người vẫn có tác động tới quá trình vận hành của hệ thống thì vẫn tồn tại còn rủi ro.
Bên cạnh đó là đòi hỏi về tính nhất quán trong thực thi chính sách giữa các địa phương. Bởi boanh nghiệp không chỉ hoạt động ở một tỉnh mà ở nhiều nhiều, nếu mỗi nơi hiểu và thực hiện luật khác nhau thì doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
“Là một ngân hàng tư nhân, chúng tôi thấu hiểu quá trình chuyển dịch của khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp rất sẵn sàng đầu tư, đổi mới, nhưng họ cần thấy rõ sự cụ thể, minh bạch trong chính sách”, ông Phát nói và cho biết điều doanh nghiệp mong muốn nhất từ hệ thống ngân hàng và chính sách hiện nay là giảm chi phí tiếp cận vốn, thủ tục nhanh gọn hơn, số hóa toàn diện và hướng đến chuyển đổi xanh.
Cũng theo đại diện ACB, định hướng hoàn thiện chính sách tín dụng cho khu vực tư nhân và “ưu tiên một phần tín dụng thương mại cho DNNVV” là bước tiến đáng ghi nhận, nhưng cần có hành lang pháp lý rõ ràng. Để đáp ứng đòi hỏi này, cần hoàn thiện mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ.
“Những quỹ này sẽ đóng vai trò ‘bệ đỡ trung gian’, cùng ngân hàng chia sẻ rủi ro, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng mạnh dạn hơn trong việc cấp vốn cho những doanh nghiệp tiềm năng, có mô hình kinh doanh đổi mới, sáng tạo”, ông Phát lưu ý.
Bổ sung, ông Mạc Quốc Anh, Tổng thư ký Hiệp hội DNNVV thành phố Hà Nội, kiến nghị cần tăng vốn điều lệ cho các quỹ bảo lãnh tín dụng và khuyến khích doanh nghiệp lớn tham gia bảo lãnh chuỗi giá trị cung ứng.
Theo đó, mô hình “doanh nghiệp bảo lãnh doanh nghiệp” trong chuỗi cung ứng nên được thể chế hóa. Chẳng hạn, các doanh nghiệp đầu chuỗi có thể bảo lãnh cho nhà cung cấp nhỏ nhận vốn để sản xuất theo hợp đồng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro giữa ba bên là ngân hàng - quỹ bảo lãnh - Chính phủ. “Có như vậy, việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp mới đạt hiệu quả hơn”, ông Quốc Anh nói.