(KTSG) - Bằng chiến lược năng động, các quỹ đầu tư lớn trong năm qua ghi nhận kết quả sinh lời vượt trội hơn so với VN-Index. Việc phân tích các chiến lược của các quỹ đầu tư trong phân bổ danh mục giúp chúng ta có thêm góc nhìn để ra quyết định đầu tư trong năm 2024.
- Thái Lan lên kế hoạch thành lập các quỹ đầu tư trồng rừng đề bán tín chỉ carbon
- Nông nghiệp tái tạo hút tiền từ các quỹ đầu tư mạo hiểm
Đến hết năm 2023, VN-Index tăng hơn 12% so với năm trước, nhưng phần nhiều mức tăng trưởng lại đến từ các cổ phiếu vốn hóa nhỏ và vốn hóa trung bình. Bằng chứng là chỉ số VN30-Index, đại diện cho 30 cổ phiếu vốn hóa lớn ở Việt Nam, có những giai đoạn thấp hơn cả chỉ số VN-Index, điều rất ít khi gặp trong nhiều năm. Điều đó cũng đồng nghĩa các quỹ đầu tư sẽ gặp nhiều khó khăn, do các quỹ thường tập trung danh mục vào các cổ phiếu vốn hóa lớn. Muốn đạt mức sinh lời tốt trong năm vừa qua thì đòi hỏi các quỹ phải có khả năng lựa chọn nhóm ngành tốt hoặc đi kèm với đó là các chiến lược giao dịch linh hoạt để tận dụng các xu hướng biến động trong ngắn hạn.
Bài viết này phân tích chiến lược đầu tư của Quỹ Đầu tư chứng khoán năng động DC (DCDS) của Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital và Quỹ Đầu tư cổ phiếu tiếp cận thị trường (VESAF) của Công ty Quản lý VinaCapital, những công ty quản lý quỹ lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mức sinh lời của DCDS và VESAF tính từ đầu năm đến cuối tháng 11-2023 lần lượt là 22,39% và 27,62%, cao hơn nhiều so với mức sinh lời chung của VN-Index ở cùng thời điểm.
Hai quỹ này có chiến lược đầu tư cân bằng khi kết hợp tỷ trọng phân bổ mục tiêu đối với cổ phiếu và trái phiếu là 80/20. Chính sách đầu tư của hai quỹ cho phép sự linh hoạt trong việc lựa chọn tỷ trọng giữa cổ phiếu và trái phiếu để tận dụng các cơ hội ngắn hạn của thị trường. Sự thay đổi trong cơ cấu tài sản cũng như danh mục các cổ phiếu trong năm của hai quỹ sẽ cung cấp cho chúng ta những góc nhìn về cách phân bổ các lớp tài sản, sau đó là giữa các nhóm ngành nghề khác nhau rồi đến cách phân bổ các cổ phiếu như thế nào theo thời gian, đặc biệt là trong những giai đoạn thị trường biến động lớn, từ đó giải thích sự khác biệt trong mức sinh lời của hai quỹ so với chỉ số VN-Index.
Linh hoạt phân bổ loại tài sản theo xu hướng thị trường
Cơ cấu phân bổ loại tài sản của các quỹ cũng có sự khác biệt đáng kể, thể hiện quan điểm khác nhau của họ về triển vọng thị trường. Tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu của VESAF là thấp hơn mức mục tiêu 80%, trong khi của DCDS là cao hơn đáng kể. Điều này thể hiện mức độ thận trọng hơn của VESAF đối với triển vọng thị trường giai đoạn đầu năm 2023.
Sau đó, cả hai quỹ đều có xu hướng tăng tỷ trọng cổ phiếu trong danh mục đầu tư khi triển vọng nền kinh tế bắt đầu tốt hơn. Tỷ trọng cổ phiếu của DCDS tăng nhanh từ tháng 5-2023, đây cũng là điểm bắt đầu của xu hướng tăng liên tục đến tháng 8-2023 của VN-Index. Nguyên nhân khiến các quỹ đầu tư gia tăng mạnh tỷ trọng cổ phiếu, giảm tỷ trọng các tài sản còn lại, do khi VN-Index tăng hay thị trường cổ phiếu đang tốt, giá trị các cổ phiếu đang nắm giữ trong danh mục cũng trở nên tích cực hơn, nên các quỹ cho rằng việc nắm giữ trái phiếu và tiền lúc này không hấp dẫn bằng cổ phiếu và bắt đầu tích lũy cổ phiếu nhiều hơn.
Khi thị trường biến động vào các tháng 9 và 10 thì chiến lược giao dịch năng động của DCDS được phát huy tối đa. Quỹ bắt đầu giảm tỷ trọng cổ phiếu và chốt lời cho phần đầu tư có lãi từ đầu năm trong tháng 10. Khi thị trường phục hồi thì quỹ quay lại gia tăng tỷ trọng cổ phiếu trong tháng 11. Trong khi đó, tỷ trọng cổ phiếu của VESAF lại được duy trì rất ổn định trong năm.
Từ đó, chúng ta sẽ thấy các chỉ tiêu về tần suất giao dịch cũng là một trong những chỉ tiêu thể hiện sự khác biệt trong chiến lược đầu tư của hai quỹ. Trong tháng 1-2023, DCDS có tần suất giao dịch mua bán chứng khoán cao gấp 10 lần VESAF, đỉnh điểm tại tháng 9-2023 - gấp 70 lần VESAF. Điều đó dẫn đến vòng quay giao dịch trong năm của DCDS cũng cao hơn VESAF rất nhiều khi đạt mức trung bình từ 4-6 vòng, trong khi VESAF là chưa đến 1 vòng.
Chiến lược phân bổ các ngành nghề linh hoạt
Hai quỹ này có điểm chung là phân bổ nhiều nhất vào ngành tài chính và bất động sản, vốn là hai ngành có giá trị vốn hóa lớn nhất trong chỉ số VN-Index. Tuy nhiên, tỷ trọng nắm giữ qua các tháng giữa hai quỹ có sự biến động khác nhau qua các quí. Nhìn chung, sự biến động về tỷ trọng ngành của DCDS là lớn hơn so với VESAF. Trong một năm qua, tỷ trọng các ngành trong danh mục của VESAF hầu như rất ổn định, thay đổi với biên độ nhỏ, phản ánh cho xu hướng nắm giữ. Còn DCDS lại có sự biến động về ngành lớn hơn, rõ ràng nhất là nửa sau năm 2023.
Trong những tháng đầu năm 2023, DCDS nắm giữ các mã trong ngành tài chính với tỷ trọng xung quanh 30-35%, trong khi VESAF chỉ nắm giữ từ 13-17% trong danh mục. Nhưng từ cuối tháng 6-2023, DCDS bắt đầu giảm tỷ trọng ngành tài chính một cách đều đặn, khiến tỷ trọng ngành tài chính của DCDS tiến sát tỷ trọng của VESAF tại tháng 11-2023, lần lượt là 14,96% và 15,48%. Điều đó thể hiện quan điểm bi quan của DCDS đối với nhóm cổ phiếu tài chính, ngân hàng. VCB là cổ phiếu thuộc nhóm tài chính mà DCDS hạ tỷ trọng nhiều nhất trong giai đoạn này, từ 7,64% tại tháng 6-2023 giảm dần đều xuống 0% tại tháng 11-2023, nghĩa là đã thoái vốn hoàn toàn khoản đầu tư vào ngân hàng này.
Chiều ngược lại, DCDS lại tăng mạnh tỷ trọng của ngành công nghệ thông tin trong danh mục lên tiệm cận tỷ trọng của ngành này trong danh mục của quỹ VESAF. Đây cũng là một trong hai ngành có mức độ tăng trưởng tốt nhất trong năm 2023 với kết quả kinh doanh được duy trì tốt dù nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn. Động thái gia tăng tỷ trọng vào ngành này góp phần không nhỏ vào mức sinh lời vượt trội hơn VN-Index của tổng danh mục năm 2023.
Đối với nhóm bất động sản, mặc dù đã có rất nhiều chỉ đạo tháo gỡ các khó khăn từ Chính phủ, song dường như chưa có sự hồi phục rõ nét và là nhóm ngành có mức tăng trưởng kém trên thị trường chứng khoán, thậm chí giảm so với năm trước. Đó là lý do vì sao tỷ trọng của nhóm này dường như đi ngang trong danh mục của cả hai quỹ. VESAF có nhiều thuận lợi khi có tỷ trọng phân bổ vào nhóm ngành này thấp hơn hẳn so với DCDS.
Sự thay đổi của cơ cấu danh mục cổ phiếu
Bảng trên cung cấp cho chúng ta một góc nhìn chi tiết hơn về sự thay đổi của các cổ phiếu trong tốp 5 của hai quỹ trong năm. Một điểm cần lưu ý, việc tỷ trọng cổ phiếu trong toàn danh mục không thay đổi nhiều là do các quỹ giảm tỷ trọng ở ngành này, nhưng sẽ tăng tỷ trọng ngành khác. Đối với DCDS, tại cuối tháng 8-2023, FPT là cổ phiếu được tăng mạnh, thay thế vị trí cao nhất của VCB trước đó, với tỷ trọng khoảng 11-13%. Ngược lại với danh mục đầu tư có mức biến động cao của DCDS, tốp 5 cổ phiếu của VESAF lại cố định, xoay quanh một vài mã như FPT, MWG, MBB, QNS và FMC. Hai quỹ này cũng có một điểm chung là đều đặt tỷ trọng cổ phiếu FPT hơn 10% trong danh mục của mình, với DCDS bắt đầu từ cuối tháng 8.
Cả hai quỹ đều có mức sinh lời vượt trội hơn hẳn so với VN-Index, tuy nhiên nguồn gốc của mức sinh lời của hai quỹ có thể khác nhau. Đối với VESAF thì mức sinh lời đến từ việc phân bổ một cơ cấu danh mục giữa cổ phiếu và trái phiếu cũng như việc lựa chọn các ngành nghề phù hợp, như tăng tỷ trọng công nghệ thông tin, giảm tỷ trọng các nhóm ngành ngân hàng và bất động sản. Điều đó giúp quỹ không cần phải thực hiện giao dịch nhiều trong năm biến động vừa rồi. Trong khi đó, đối với DCDS thì việc lựa chọn cổ phiếu và một chiến lược giao dịch năng động đối với các cổ phiếu định giá chưa phù hợp có lẽ là nguồn gốc của mức sinh lời của quỹ.
Như vậy, mức sinh lời của DCDS và VESAF phản ánh chiến lược đầu tư thụ động và chủ động đều có thể mang lại mức sinh lời tốt, thậm chí là trong những điều kiện biến động của thị trường, nếu như các chiến lược được sử dụng một cách nhất quán và có phương pháp. Đây sẽ là những bài học tham khảo hữu ích cho các nhà đầu tư cá nhân về cách lựa chọn chiến lược đầu tư phù hợp dựa trên năng lực của bản thân để chuẩn bị cho năm 2024.
(*) CFA
(**) VDSC