(KTSG) - Trong khi chúng ta vẫn loay hoay giai đoạn xem xét, nghiên cứu, định hình cách tiếp cận quản lý tài sản số thì năm nước còn lại trong khu vực như ASEAN-6 (Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) đã đi được một chặng đường dài.
Vài năm trở lại đây, thế giới chứng kiến sự bùng nổ của tiền mã hóa (cryptocurrency) và vô số hình thức tài sản số khác. Ban đầu, có thể đó chỉ là trào lưu của những nhà đầu tư mạo hiểm. Nhưng hiện tại, làn sóng này đã len lỏi vào rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế toàn cầu. Nó liên quan mật thiết đến kinh tế vĩ mô, chủ quyền tiền tệ, chính sách thuế, an ninh tài chính và cả an ninh quốc gia.
Mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng bày tỏ sự trăn trở về tình trạng Việt Nam chậm trễ trong xây dựng thể chế pháp lý cho các mô hình tài chính mới, bao gồm cả việc quản lý tiền số và các loại tài sản số khác. Trong khi chúng ta vẫn loay hoay giai đoạn xem xét, nghiên cứu, định hình cách tiếp cận quản lý tài sản số thì năm nước còn lại trong khu vực như ASEAN-6 (Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) đã đi được một chặng đường dài.
Singapore đã xây dựng thành công thương hiệu là một trong những quốc gia dẫn đầu về đổi mới công nghệ, trong đó có công nghệ tài chính (FinTech) và công nghệ chuỗi khối (blockchain). Chỉ riêng việc Singapore ban hành Đạo luật Dịch vụ thanh toán năm 2019 (có hiệu lực từ đầu 2020) đã biến Singapore thành một trong những trung tâm của ngành công nghiệp tài sản số của châu Á. Singapore đưa ra định nghĩa rõ ràng về “digital payment token” và yêu cầu sàn giao dịch tiền mã hóa phải đăng ký giấy phép tương tự như tổ chức tài chính. Bên cạnh đó, Singapore có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho những dự án token hóa tài sản hoặc công nghệ blockchain có ích cho thực tiễn. Các dự án đã thành công cho thấy họ có tầm nhìn xa hơn chuyện làm giàu nhanh bằng tiền “ảo”. Họ coi công nghệ tài sản số là động lực cho tương lai ngành tài chính và kinh tế số.
Tuy vậy, cách tiếp cận của Singapore không phải là buông lỏng hay thả nổi. Họ đề ra bộ quy tắc nghiêm ngặt về chống rửa tiền (AML), phòng ngừa rủi ro công nghệ và bảo vệ nhà đầu tư. Nước này kiên quyết nói không với việc quảng cáo bừa bãi tiền mã hóa, cấm ATM bitcoin đặt nơi công cộng hay các chiến dịch tiếp thị lôi kéo. Nói cách khác, Singapore xây nền móng pháp lý chặt chẽ, vừa quản lý rủi ro vừa tạo ra không gian cho đổi mới và thu hút dòng vốn chất lượng.
Nhìn lại Việt Nam, rõ ràng chúng ta đang chậm chân hơn các nước trong khu vực vừa kể trên từ 6-8 năm. Ngay lúc này, chúng ta vẫn đang loay hoay ở bước đề xuất khung pháp lý thí điểm và tranh luận nên coi tiền mã hóa là tài sản, hàng hóa, chứng khoán hay phương tiện thanh toán. Sự tụt hậu này tạo ra không ít hệ lụy.
Nếu Singapore được coi là điểm đến hàng đầu cho nhà đầu tư tổ chức và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo liên quan đến công nghệ chuỗi khối (startup blockchain) thì Thái Lan cũng không kém phần hấp dẫn. Điều đặc biệt là Thái Lan ban hành Luật Quản lý tài sản kỹ thuật số từ năm 2018, còn sớm hơn cả Singapore. Sắc lệnh Khẩn cấp về Kinh doanh tài sản kỹ thuật số B.E. 2561 yêu cầu tất cả sàn giao dịch, môi giới, đại lý tiền mã hóa phải đăng ký giấy phép và tuân thủ quy định của Ủy ban Chứng khoán (Securities anh Exchange Commission, Thailand - SEC Thailand) cũng như Bộ Tài chính. Họ cũng sửa luật thuế để đánh vào giao dịch tiền mã hóa ngay trong năm 2018.
Thái Lan đón nhận làn sóng ICO (chào bán token lần đầu) một cách có kiểm soát thông qua các cổng ICO chính thức để thẩm định dự án. Khi bối cảnh thị trường nóng lên và xuất hiện nguy cơ đầu cơ lớn, họ siết chặt các quy định thông qua việc cấm sử dụng tiền số làm phương tiện thanh toán. Điều này không đồng nghĩa là đóng cửa thị trường này. Nhà đầu tư Thái Lan vẫn được phép giao dịch nhiều loại tiền mã hóa dưới sự giám sát của SEC nước này. Lý do Thái Lan làm được điều này là do họ chủ trương học tập sớm, điều chỉnh kịp thời và tạo môi trường minh bạch cho doanh nghiệp FinTech phát triển. Người Thái đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tiến nhanh nhưng họ cũng phản ứng khá mau lẹ khi nhận thấy mối đe dọa mới. Kết quả là Thái Lan trở thành một trong những thị trường tiền mã hóa sôi động bậc nhất thế giới, thu hút hàng triệu người dùng trong nước lẫn nhiều startup blockchain.
Nhắc đến Indonesia, có lẽ nhiều người chưa biết quốc gia này đã sớm công nhận tiền mã hóa như một loại hàng hóa thông qua quy định được ban hành bởi Cơ quan Quản lý giao dịch hàng hóa tương lai (BAPPEBTI) từ năm 2019. Mục tiêu ban đầu của họ chỉ đơn thuần là ghi nhận hiện tượng tiền số và đưa nó vào khung quản lý như các loại hàng hóa phái sinh. Thế nhưng, khi số nhà đầu tư tiền số tăng vượt cả tổng số nhà đầu tư chứng khoán, Chính phủ Indonesia nhanh chóng nhận ra rủi ro tiềm ẩn. Họ lập Sở giao dịch tài sản số quốc gia và buộc mọi sàn phải tham gia để thống nhất quản lý.
Gần đây, Indonesia đã chuyển quyền giám sát tài sản số từ BAPPEBTI sang Ủy ban Dịch vụ tài chính (OJK - cơ quan quản lý ngân hàng và chứng khoán) nhằm tích hợp quản lý tiền mã hóa vào tổng thể hệ thống giám sát tài chính. Động thái này cho thấy Indonesia không xem tiền mã hóa là “trò chơi” riêng lẻ. Họ muốn quản lý chúng chặt chẽ giống như các chứng khoán hay công cụ tài chính. Indonesia tiếp cận theo hướng xem tiền mã hóa như một loại tài sản đầu tư, không phải là tiền. Đây là một cách tiếp cận linh hoạt và thực dụng. Họ nhìn thấy giá trị từ công nghệ nhưng đặt mục tiêu bảo vệ đồng rupiah và an ninh tiền tệ lên hàng đầu.
Malaysia và Philippines cũng tương đối năng động trong mảng tiền số. Philippines quản lý hoạt động tiền mã hóa thông qua Ủy ban Chứng khoán (Securities anh Exchange Commission - SEC) và Ngân hàng Trung ương đồng thời khuyến khích các dự án blockchain hỗ trợ kiều hối, thanh toán quốc tế. Malaysia thì coi hoạt động ICO và giao dịch token như lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của Ủy ban Chứng khoán (Securities Commission Malaysia - SC), yêu cầu sàn giao dịch tiền mã hóa nộp đơn xin cấp phép. Cả hai nước đều bắt đầu ban hành quy định từ những năm 2017-2019, cho thấy họ không chần chừ chờ đợi. Họ nhận thấy thời cơ và cả thách thức nên chính sách của họ thường vừa quản lý chặt vừa hỗ trợ những ứng dụng công nghệ thật sự mang lại lợi ích.
Nhìn chung, thực tiễn cho thấy năm quốc gia này có khá nhiều điểm tương đồng, bên cạnh những khác biệt tạo nên lợi thế cạnh tranh. Họ đều ban hành khung pháp lý sớm và coi tiền mã hóa như một phần chính thống của ngành tài chính. Theo sau đó, các quy định về quản lý rủi ro được thiết kế và thực thi. Họ tạo ra các chuẩn mực tuân thủ về: (i) vốn; (ii) minh bạch thông tin; (iii) giới hạn giao dịch cho nhà đầu tư cá nhân; (iv) quy định về an ninh mạng; và (v) chống rửa tiền. Chính phủ không công nhận tiền mã hóa là tiền pháp định (vì sợ mất quyền kiểm soát tiền tệ) nhưng không cấm đầu tư hay phát triển công nghệ. Họ còn mở khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho FinTech, lập sở giao dịch quốc gia giám sát giao dịch và định kỳ cập nhật danh sách token cấm/được phép. Những chính sách ấy tạo ra không gian đổi mới an toàn, đủ linh hoạt để thu hút tài năng, dòng vốn mà không đánh đổi sự ổn định hệ thống.
Nhìn lại Việt Nam, rõ ràng chúng ta đang chậm chân hơn các nước trong khu vực vừa kể trên từ 6-8 năm. Ngay lúc này, chúng ta vẫn đang loay hoay ở bước đề xuất khung pháp lý thí điểm và tranh luận nên coi tiền mã hóa là tài sản, hàng hóa, chứng khoán hay phương tiện thanh toán. Sự tụt hậu này tạo ra không ít hệ lụy.
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt Nam không có sân chơi minh bạch và hợp pháp để phát triển dự án blockchain nên buộc phải đăng ký công ty ở nước ngoài. Bằng không thì phải hoạt động trong trạng thái nửa kín nửa hở, tranh sáng tranh tối. Điều này không chỉ gây thiệt hại về thuế mà còn làm lãng phí nguồn nhân lực chất lượng.
Thứ hai, nhà đầu tư cá nhân không được bảo vệ đủ tốt. Khi xảy ra lừa đảo, tranh chấp, họ chỉ biết kêu cứu hoặc rơi vào vòng xoáy kiện tụng vô định.
Thứ ba, nguy cơ rửa tiền, thất thoát ngoại tệ ngày càng lớn. Nguyên nhân là do giao dịch tiền mã hóa diễn ra lén lút mà cơ quan chức năng chưa có hành lang pháp lý chính thức để giám sát.
Cuối cùng, ta đã và đang bị tụt lại về công nghệ và mất ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút dòng vốn đầu tư, trong khi đó Singapore, Thái Lan, Indonesia đều đã định vị mình là điểm đến hứa hẹn của các startup công nghệ.
Sự trăn trở của Tổng Bí thư Tô Lâm vừa qua có ý nghĩa cảnh tỉnh và thể hiện tầm nhìn, sự quyết liệt của một lãnh đạo cấp cao. Rõ ràng, sự chậm trễ về thể chế trong thời đại số sẽ tạo nên một khoảng cách rất đáng sợ. Nó không chỉ làm đất nước mất cơ hội phát triển mà còn làm suy yếu tính cạnh tranh và an ninh tài chính. Nếu tiếp tục ngập ngừng, Việt Nam có thể để vuột qua chu kỳ bùng nổ của blockchain và tài sản số. Năm quốc gia trong ASEAN-6 kể trên đều đã tự vẽ ra con đường riêng nhưng họ có chung một bài học là phải dám nhìn thẳng vào rủi ro và cơ hội để xây dựng khung quản lý phù hợp. Việt Nam có thể học từ bài học đó, áp dụng chọn lọc và sửa đổi linh hoạt cho bối cảnh trong nước. Lựa chọn duy nhất là phải quyết liệt, chủ động thử nghiệm và điều chỉnh liên tục. Nếu chúng ta để lỡ thời điểm thì cái giá phải trả có thể còn đắt hơn nhiều so với những gì chúng ta lo sợ khi ban hành chính sách và quy định.
(*) Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM.