(KTSG Online) - Tốc độ tăng số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lại khi một số khách hàng ngần ngại trước mức tăng mạnh của giá cả và khó mua nguyên vật liệu từ Trung Quốc trong bối cảnh các hạn chế áp đặt liên quan Covid-19 của nước này.
Theo báo cáo mới nhất về Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (Purchasing Managers’ Index – PMI) ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global thực hiện được IHS Markit công bố ngày 5-4 rằng, sả̉n lượng của ngành sản xuất Việt Nam đã tăng trở lại trong tháng 4 khi tình hình nhiễm Covid-19 mới đây đã giảm và các công ty đã có thể tuyển thêm nhân công và mở rộng sản xuất.
Báo cáo cho thấy chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam đã không thay đổi với kết quả 51,7 trong tháng 4 khi các điều kiện kinh doanh nói chung đã cải thiện trong bảy tháng liên tiếp.
Cả sản lượng và việc làm đều tăng trở lại trong tháng 4 sau khi giảm trong tháng 3. Trong cả hai trường hợp, các công ty được hưởng lợi từ tình trạng giảm số ca nhiễm Covid-19 sau khi đạt đỉnh trong tháng 3.
Tình hình đại dịch có sự cải thiện đã cho phép nhân viên quay trở lại làm việc, trong khi cũng có nhiều báo cáo về hoạt động tuyển dụng mới. Trên thực tế, tốc độ tạo việc làm là nhanh nhất trong thời gian một năm, theo báo cáo.
Năng lực sản xuất tăng đã giúp các công ty tăng sản lượng và tận dụng được lực cầu khách hàng đang tăng. Sản lượng đã tăng lần thứ sáu trong bảy tháng qua.
Ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global, bình luận trong báo cáo rằng: "Tốc độ giảm nhanh chóng các ca nhiễm Covid-19 ở Việt Nam đã giúp sản lượng và việc làm tăng trở lại trong tháng 4 khi các điều kiện kinh doanh trở nên bình thường hơn. Điều này dẫn đến hy vọng rằng ngành sản xuất sẽ duy trì được thời kỳ khôi phục và tăng trưởng".
Tuy nhiên, theo ông Andrew Harker, vẫn có những yếu tố cản trở tốc độ tăng trưởng, đáng kể nhất là những khó khăn do đại dịch tiếp tục tồn tại ở Trung Quốc và giá cả đang tăng mạnh. Những vấn đề này đã ảnh hưởng đến cả cung và cầu vào thời điểm đầu quý 2 và có thể sẽ hạn chế tăng trưởng trong những tháng tới.
Cụ thể báo cáo cho thấy, tốc độ tăng số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lại khi một số khách hàng ngần ngại trước mức tăng mạnh của giá cả. Tốc độ tăng đã chậm lại thành mức yếu nhất trong thời kỳ tăng kéo dài bảy tháng hiện nay.
Mặt khác, những khó khăn của chuỗi cung ứng cũng làm hạn chế tốc độ tăng, và nhiều doanh nghiệp đã nêu những khó khăn trong việc mua nguyên vật liệu từ Trung Quốc trong bối cảnh các hạn chế áp đặt liên quan Covid-19 của nước này.
Theo những người trả lời khảo sát, tình trạng giá cả tăng và nguyên vật liệu khan hiếm đã hạn chế đà tăng. Tình hình tương tự xảy ra với số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới khi
tốc độ tăng của chỉ số này cũng chậm lại.
Trong trường hợp xuất khẩu, những hạn chế do Covid-19 ở Trung Quốc là một phần nguyên nhân dẫn đến giảm tốc độ tăng.
"Số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn và lực lượng nhân công tăng giúp các công ty có thể giải quyết tốt khối lượng công việc, và lần đầu tiên trong ba tháng đã có thể giảm lượng công việc tồn đọng", theo báo cáo do IHS công bố.
Báo cáo cũng cho thấy chi phí đầu vào tiếp tục tăng mạnh, và tốc độ tăng là nhanh thứ nhì trong thời kỳ 11 năm. Những hạng mục được nhiều người báo cáo tăng giá là cước vận tải, khí đốt, xăng dầu.
Để bù đắp, các nhà sản xuất đã tăng nhanh giá bán hàng, và tốc độ tăng giá là nhanh nhất
trong thời kỳ năm tháng.
Thời gian giao hàng của nhà cung cấp tiếp tục bị kéo dài khi những hạn chế liên quan Covid-19 ở Trung Quốc và chiến tranh ở Ukraine đã ảnh hưởng đến khả năng mua hàng hóa đầu vào của các công ty.
Tuy nhiên, mức độ kéo dài thời gian giao hàng là ít đáng kể nhất trong thời kỳ một năm khi tình hình đại dịch ở Việt Nam đã cải thiện.
Những vấn đề về nguồn cung nguyên vật liệu góp phần làm tồn kho hàng mua trong tháng 4 giảm lần đầu tiên trong bốn tháng khi tồn kho hàng hóa trước sản xuất giảm mặc dù hoạt động mua hàng tăng bảy tháng liên tiếp.
Trên thực tế, hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng nhanh hơn so với tháng 3, và những người trả lời khảo sát cho rằng nguyên nhân tăng là do số lượng đơn đặt hàng mới tăng.
Tồn kho thành phẩm cũng giảm, và các thành viên nhóm khảo sát cho rằng nguyên nhân giảm là do việc sử dụng hàng tồn kho để đáp ứng yêu cầu bán hàng, đồng thời sản xuất bị hạn chế do thiếu hụt nguyên vật liệu.
Khảo sát cũng cho thấy niềm tin kinh doanh của doanh nghiệp đã tăng vào đầu quý 2 và đạt trên mức trung bình của lịch sử chỉ số. Tình trạng cải thiện gần đây của đại dịch ở Việt Nam và hy vọng Covid-19 sẽ được kiểm soát thường được xem là nguyên nhân dẫn đến những kỳ vọng tích cực, trong khi các công ty cũng kỳ vọng nhu cầu sẽ mạnh lên và những khó khăn của nguồn cung sẽ giảm bớt.