(KTSG Online) - Sầu riêng tươi mang về vài tỉ đô la mỗi năm cho nhà nông, nhưng để giữ vững thị trường xuất khẩu, nông sản này cần chuẩn hóa toàn bộ chuỗi sản xuất từ nhà vườn, thương lái đến bàn ăn, thay vì chỉ chạy đua tăng diện tích, sản lượng. Liên kết và chuẩn hóa là bước khởi đầu để biến vàng thô thành châu báu.
- Sầu riêng tươi xuất khẩu phải theo quy trình an toàn mới
- Hướng tới ‘trạng thái bình thường mới’ cho sầu riêng Việt Nam
- Xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc tăng 28 lần sau 5 năm
Tăng ồ ạt nhưng không bền vững
Nói về diện tích, sản lượng và kim ngạch thì hiếm có nông sản nào tăng trưởng nóng như sầu riêng. Chỉ trong 5 năm, diện tích sầu riêng cả nước đã tăng gấp đôi, vượt 150.000 héc ta cuối năm 2023. Sản lượng năm ngoái hơn 1,3 triệu tấn, đưa Việt Nam thành nguồn cung lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Còn xuất khẩu thì tăng từ 420 triệu đô la (2021) lên khoảng 2,5-2,7 tỉ đô la năm ngoái, trong đó 80-90% xuất sang Trung Quốc.
Tuy nhiên, đằng sau vườn sầu riêng nở rộng đang che khuất một khoảng trống lớn: tỷ lệ vùng trồng được chứng nhận thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP chỉ dưới 5%. Thực tế, 2 năm nay, không ít lô hàng đã bị phía nhập khẩu cảnh báo dư lượng hóa chất, một số vùng trồng tạm ngưng mã số xuất khẩu.

Quyết định 3015/QĐ-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm đối với quả sầu riêng tươi xuất khẩu có hiệu lực ngay ngày ký, 4-8-2025, buộc ngành hàng sầu riêng phải liên kết và chuẩn hóa. Đó là từ nay, muốn đi chính ngạch, vùng trồng phải có mã số, cơ sở đóng gói phải được chứng nhận, sản phẩm phải truy xuất được nguồn gốc, đạt chuẩn tồn dư hóa chất và ghi nhãn đúng quy định.
Chuẩn hóa không chỉ là giấy tờ
Theo quy trình mới, việc tuân thủ chuẩn không chỉ để “có giấy thông quan” cho xuất khẩu, mà phải được thực hiện ngay từ khâu canh tác và mô hình mẫu cho luôn cả thị trường nội địa. Nông dân phải ghi chép nhật ký sản xuất, sử dụng phân thuốc đúng danh mục, xây dựng hạ tầng như hàng rào kỹ thuật, hệ thống tưới và kho bảo quản. Cơ sở đóng gói phải đầu tư dây chuyền xử lý, phân loại, kho lạnh, hệ thống kiểm nghiệm.
Ai cũng biết, chi phí cho ứng dụng các tiêu chuẩn sản xuất nông sản như VietGAP, GlobalGAP, HACCP không hề nhỏ cho nhà nông mà diện tích trồng sầu riêng chỉ vài ngàn mét vuông hay 1-2 héc ta, lại phải tái chứng nhận định kỳ. Với nông hộ nhỏ lẻ, việc này gần như bất khả thi nếu không liên kết, không có hợp tác xã hoặc doanh nghiệp đầu mối đứng ra tổ chức sản xuất và bao tiêu. Liên kết là chìa khóa khi chỉ một hộ vi phạm có thể làm mất mã số của cả vùng trồng.
GlobalGAP (Global Good Agricultural Practice, yêu cầu cao hơn VietGAP, áp dụng ở hơn 100 quốc gia), HACCP (hệ thống quản lý an toàn thực phẩm cho toàn chuỗi)
Số liệu của ngành nông nghiệp cho thấy khoảng 20% sản lượng sầu riêng ngoái được sản xuất trong vùng trồng, cơ sở đóng gói đạt chuẩn; phần còn lại phải tiêu thụ nội địa hoặc xuất tiểu ngạch, chịu rủi ro bị trả hàng, giá rớt. Khi tiêu chuẩn bị siết, hàng ùn ứ ở cửa khẩu là kịch bản dễ thấy.
Bài học từ Thái Lan: tem truy xuất và trách nhiệm
Thái Lan xuất khẩu sầu riêng lớn nhất thế giới, đã nhiều năm gắn tem dán trên từng quả, ghi thông tin liên hệ của cơ quan quản lý chất lượng thuộc Bộ Nông nghiệp. Người tiêu dùng mua phải trái kém chất lượng có thể gọi điện phản ánh, từ mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói, cơ quan quản lý sẽ truy ngược tới tận vườn và nhà máy.
Không chỉ dừng ở truy xuất giấy tờ, Thái Lan còn kiểm soát từng lô hàng trước khi thu hoạch. Nông dân phải lấy mẫu trái, kiểm tra chất lượng tại điểm được công nhận; phải đạt độ khô tối thiểu. Sau khi đạt, họ được cấp giấy xác nhận để bán. Người mua và kho thu mua cũng phải đăng ký và chỉ giao dịch với lô hàng có giấy hợp lệ.
Nhờ vậy, Thái Lan duy trì ổn định xuất khẩu chính ngạch, chỉ riêng 6 tháng đầu năm nay, nước này đã bán sang Trung Quốc 591.000 tấn, ước tính gấp hơn 4 lần Việt Nam.
Đừng ảo tưởng “có chuẩn là xong”
Quyết định 3015/QĐ-BNNMT phân công rõ trách nhiệm: Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường hướng dẫn, tập huấn; Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật quản lý mã số vùng trồng; Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, Sở An toàn thực phẩm TPHCM giám sát, lấy mẫu, đào tạo kiểm tra viên.
Nhưng chính sách sẽ khó đi vào thực tế nếu thiếu gắn kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp. Mô hình sản xuất theo chuỗi giúp chia sẻ chi phí chứng nhận, thống nhất quy trình, đồng thời tạo lợi thế đàm phán với nhà nhập khẩu. Ngược lại, sản xuất tự phát khiến từng mắt xích dễ “vỡ trận” khi gặp yêu cầu kỹ thuật mới.
Việc ban hành quy trình kiểm soát vệ sinh toàn thực phẩm cho sầu riêng tươi xuất khẩu là bước tiến quan trọng cho nông sản tỉ đô, nhưng không phải “chiếc đũa thần” biến mọi lô sầu riêng thành hàng xuất chuẩn chỉnh. Đây mới chỉ là khung pháp lý, để biến thành lợi thế cạnh tranh, cả ngành hàng phải kiên trì một quá trình dài: chuẩn hóa đồng bộ, giám sát chặt chẽ, duy trì kỷ luật chuỗi sản xuất.
Các mô hình sản xuất bài bản, dù chỉ vài chục héc ta, vẫn an toàn hơn hàng trăm, hàng ngàn héc ta tự phát. Chi phí để làm cho chuẩn quy trình có thể tốn kém ban đầu nhưng sẽ rẻ hơn rất nhiều lần nếu không làm, thị trường “khép cửa”. Và quan trọng, không thể trông chờ mãi vào một thị trường Trung Quốc, mà mở rộng sang Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, thì lại càng đòi hỏi chuẩn chỉnh hơn.
Sầu riêng Việt đang ở vị thế “trái vàng” của ngành nông sản, nhưng vàng thật phải qua lửa thử. Chuẩn hóa không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn để bước ra thế giới bằng con đường chính ngạch.