Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Thách thức khi đón sóng FDI từ Nhật Bản

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Thách thức khi đón sóng FDI từ Nhật Bản

Phan Đình Mạnh

(TBKTSG Online) – Sự dịch chuyển sản xuất của doanh nghiệp Nhật là tín hiệu mừng, song Việt Nam còn nhiều chuyện phải làm để tránh đi vào "vết xe đổ" trong thu hút dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của nhiều năm trước.

Nghịch lý FDI

Chuyển sang ASEAN, doanh nghiệp Nhật Bản chọn Việt Nam nhiều nhất

Thách thức khi đón sóng FDI từ Nhật Bản
Trong ảnh là dây chuyền sản xuất linh kiện cho các sản phẩm điện tử tại Công ty TNHH INOAC Việt Nam (vốn đầu tư Nhật Bản) tại Khu công nghiệp Quang Minh (Hà Nội). Ảnh: TTXVN

Theo khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) được thực hiện vào cuối năm ngoái, có đến 41% trong số 3.500 doanh nghiệp Nhật Bản đang cân nhắc mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong ba năm tới. Đây là tỷ lệ cao nhất trong sự dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang khu vực Đông Nam Á của doanh nghiệp nước này.

Tính đến hết năm 2019, Nhật Bản có 4.190 dự án đầu tư tại Việt Nam với vốn đăng ký 57,9 tỉ đô la Mỹ, đứng thứ hai trong số các quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam. Vốn đầu tư từ Nhật Bản được coi là dòng vốn lớn, là hình mẫu của mối quan hệ hợp tác giữa các công ty Việt Nam và các công ty FDI.

Tuy nhiên, môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế. Các công ty Nhật Bản liên tục phàn nàn về ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam, về tình trạng thiếu điện và thiếu cơ sở hạ tầng nghiêm trọng.

Trong Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Địa phương (PCI) 2019, các công ty nước ngoài tiếp tục nói về khó khăn trong tiếp cận đất đai. Ngoài ra, theo báo cáo của JBIC (Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản), các doanh nghiệp Nhật cũng gặp khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, giá nhân công có xu hướng tăng, khó thu hút nhân lực cấp quản lý.

Vậy đâu là những giải pháp có thể cân nhắc để tránh đi vào “vết xe đổ” trong thu hút FDI từ nhiều năm trước và nâng tầm vị thế của các công ty nội địa trong mạng lưới sản xuất toàn cầu?

Ngoài các yếu tố phổ biến cần có để thu hút một dự án đầu tư cho bất kể lĩnh vực nào như chi phí lao động, ưu đãi thuế, đất… thì còn cần phải chú ý tới cả hệ thống quản trị, văn hóa công ty, ngành nghề kinh doanh và các đặc điểm riêng của doanh nghiệp đầu tư. Đối với nhà đầu tư Nhật Bản, các đặc điểm đó càng nổi bật và khác biệt so với hầu hết các nhà đầu tư khác. Những đề xuất sau đây có thể thích hợp với đối tác đầu tư Nhật Bản:

Thứ nhất, nên hướng hoạt động thu hút đầu tư vào các dự án như công nghệ cao, sản xuất thiết bị, vật liệu và linh kiện đầu vào cho hoạt động lắp ráp, vận tải quốc tế. Bởi đây là thế mạnh của doanh nghiệp Nhật Bản và cũng là điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam.

Do các lợi thế truyền thống như giá nhân công rẻ, nguồn đất đai cũng như nguyên liệu ngày càng khan hiếm và sự cạnh tranh gay gắt từ thị trường khác thì việc nâng cấp nguồn lực lao động là điều kiện tiên quyết để nâng cao hình ảnh trong thu hút FDI và qua đó thu hút các đại bàng với các hoạt động đầu tư chất lượng hơn.

Thu hút các doanh nghiệp này trước mắt sẽ giúp nâng tầm ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành lắp ráp. Doanh nghiệp nội địa có thể làm nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp Nhật Bản và về dài hạn có thể học hỏi và nhận chuyển giao kỹ thuật cũng như công nghệ từ các công ty này.

Thứ hai, khu công nghiệp cần có diện tích đủ rộng hoặc nằm gần nhau để người lao động có thể di chuyển qua lại dễ dàng. Khác với các công ty châu Âu hay Mỹ (thường buôn bán theo dạng thị trường tự do), do đặc điểm văn hóa cũng như đặc điểm của ngành điện tử và sản xuất, các công ty Nhật Bản thường làm việc theo các hệ sinh thái và mạng lưới riêng. Vì vậy, khu công nghiệp có diện tích đủ rộng sẽ giúp bố trí các công ty Nhật vào cùng một hệ sinh thái, đồng thời bố trí nhà cung cấp Việt Nam vào chung hệ sinh thái đó để tận dụng cơ hội hợp tác và học hỏi.

Thứ ba, cần phát triển dịch vụ hậu cần tốt. Do người Nhật thường ra ngoài tổ chức các bữa tiệc để thảo luận về công việc; doanh nhân sẽ mang cả gia đình theo cùng làm việc nên cần có dịch vụ vui chơi, giải trí cho gia đình. Bên cạnh đó, đặc tính này của người Nhật cũng tạo nhu cầu cho sự phát triển của hệ thống trường học, giải trí, bất động sản…

Thứ tư, các công ty vệ tinh Việt Nam (hay các nhà cung cấp, nhà thầu phụ trong nước) cần được chuẩn bị để có thể thực hành các giải pháp quản lý chất lượng cũng như đạt được các chứng nhận về tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Các doanh nghiệp trong nước cũng nên áp dụng công nghệ để giảm giá thành nhằm có giá chào hàng cạnh tranh.

Ngoài ra, doanh nghiệp Việt cũng cần sẵn sàng cho hợp đồng lớn nhưng phải đảm bảo chất lượng hàng hóa đầu ra ổn định. Việc đảm bảo thực hiện các hợp đồng lớn cũng là cơ sở để doanh nghiệp đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô và giảm giá chào hàng. Doanh nghiệp có thể tập hợp nhiều nhà sản xuất (khách hàng) cùng ngành lại để có đơn hàng lớn tập trung vào một hệ sinh thái.

Thứ năm, cần chuẩn bị chỗ ở gần nơi làm việc cho lực lượng lao động để họ có thể làm việc dài hạn và tăng ca thường xuyên. Không riêng gì các công ty Nhật Bản, các nhà đầu tư lớn, đặc biệt các công ty hàng tiêu dùng toàn cầu, thường đưa ra yêu cầu cao về điều kiện lao động. Bởi đây là tiêu chí để thâm nhập một số thị trường sản phẩm cao cấp như châu Âu hay Mỹ, Nhật Bản…

Thứ sáu, hệ thống các công ty sản xuất có thể rất dày đặc, đòi hỏi khâu quy hoạch và hạ tầng phải được thực hiện tốt. Nếu quy hoạch đồng bộ, chặt chẽ và dựa trên kế hoạch kinh tế/dự báo thì hệ thống hàng ngàn nhà máy vẫn có thể được quản lý tốt. Lấy ví dụ về hệ thống tàu điện của Tokyo, vốn dày đặc nhưng do được quy hoạch và tổ chức tốt nên luôn đúng giờ. Để có thể đạt được một hế thống hoàn hảo như vậy đòi hỏi một nguồn vốn lớn, nhưng quan trọng hơn là khả năng dự báo nhu cầu chính xác, sự điều phối, kết hợp và tổ chức các ngành nghề lại với nhau. Công việc này có thể được thực hiện tốt hơn với sự có mặt của công nghệ quản lý và tổ chức.

Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của thu hút FDI (ngoài mục tiêu giải quyết công ăn việc làm và thu thuế) là học hỏi, chuyển giao công nghệ cho công ty nội địa, tạo ra mạng lưới đan xen cho cả công ty nội địa và FDI cùng làm ăn trong một hệ sinh thái, và cao hơn nữa là giúp công ty nội địa có thể tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đây được xem là mục tiêu khó nhất và cao nhất nhưng lại có giá trị lâu dài nhất.

Để đạt được mục tiêu này, ngoài các đề xuất như trên thì cũng cần tạo động lực và trợ lực khác cho cả công ty FDI để họ sẵn sàng hợp tác và chuyển giao công nghệ cho công ty nội địa và công ty nội địa cũng sẵn sàng đầu tư để nâng cấp và tham gia vào mạng lưới của các công ty nước ngoài.

Một vài đề xuất là có thể thành lập và điều phối các Trung tâm kết nối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa; hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu giữa các trường đại học và doanh nghiệp; phát triển các cụm và tổ hợp công nghiệp liên quan; bảo vệ quyền sở hữu công nghệ cho các công ty phát triển nguồn…

Người lao động cần cải thiện nhiều kỹ năng

Người lao động Việt Nam được đánh giá cao ở nhiều mặt nhưng cũng có nhiều vấn đề phải cải thiện khi đón làn sóng đổ bộ của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Đầu tiên, người lao động cần tìm hiểu kỹ về công việc do người Nhật thường tính toán dài hạn và có văn hóa làm việc suốt đời. Đặc biệt, lao động cấp quản lý cần tìm hiểu về công việc và công ty thật kỹ trước khi nhận việc nhằm tránh rủi ro không đáng có và để đảm bảo các chính sách sắp xếp/tiến cử lên các vị trí cao hơn.

Ngoài ra, do các doanh nhân Nhật Bản chuộng dùng ngôn ngữ giao tiếp bằng tiếng Nhật nên nhân viên cấp trung cần chuẩn bị kỹ năng Nhật ngữ cơ bản. Họ cũng cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng làm thêm giờ vì đó là văn hóa làm việc của Nhật Bản.

Đặc biệt, bên cạnh kỹ năng mềm, người lao động cần có khả năng sắp xếp và tổ chức công việc tốt. Việc tổ chức và sắp xếp công việc thông suốt, quy trình chặt chẽ, phối hợp đồng điệu trong ê-kíp sẽ giúp giảm thời gian tạo ra thành phẩm và tăng năng suất lao động.

Thu hút FDI là một hoạt động cần thiết của nền kinh tế. Nhưng do các lợi thế truyền thống như giá nhân công rẻ, nguồn đất đai cũng như nguyên liệu ngày càng khan hiếm và sự cạnh tranh gay gắt từ thị trường khác (với các ưu đãi kịch khung) thì việc nâng cấp nguồn lực lao động là điều kiện tiên quyết để nâng cao hình ảnh trong thu hút FDI và qua đó thu hút các đại bàng với các hoạt động đầu tư chất lượng hơn.

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới