(KTSG Online) – Giáo dục trực tuyến Việt là thị trường đầy tiềm năng và được “kích hoạt” bởi Covid-19. Những tưởng hậu đại địch mô hình này đi vào thoái trào, tuy nhiên thị trường này vẫn duy trì sức nóng và gia tăng thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Thực tế, giáo dục trực tuyến tại Việt Nam bắt đầu hình thành từ khoảng năm 2006 - 2007, cùng với thời kỳ đầu tiên của nền kinh tế internet. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2020 - 2021, do sự thúc đẩy bởi Covid-19, nhu cầu dạy và học trực tuyến tăng cao. Việc thu hút đầu tư vào giáo dục trực tuyến tại Việt Nam vì thế cũng “bùng nổ” mạnh mẽ trong dịch Covid-19. Sau khi thiết lập được quy trình tốt mô hình này theo đà phát triển và cho thấy tốc độ tăng trưởng tốt hậu đại dịch.
Thu hút đầu tư trong và sau Covid-19
Cách đây hơn một tháng, startup dạy tiếng Anh trực tuyến tại Việt Nam là NativeX đã nhận được đầu tư 2,5 triệu đô la Mỹ từ Ansible Ventures và BluePrint Ventures và Northstar Ventures cùng một số nhà đầu tư khác. Trước đó, cách đây vài năm, NativeX đã huy động được 1,5 triệu đô la Mỹ từ các nhà đầu tư thiên thần chỉ sau 2 tháng ra mắt.
Sở dĩ startup trên nhận được khoản vốn đầu tư mới này bởi đã thành công trong phát triển kinh doanh. Chỉ trong vòng gần 1 năm, NativeX đã mở hơn 60.000 lớp học với hơn 70.000 đăng ký tham gia. Trong đó, có hơn 5.000 học viên đăng ký trả phí học dài hạn và 1.500 học viên đang là quản lý cấp cao và giám đốc điều hành ở các công ty khác nhau.
NativeX cho biết sẽ sử dụng phần lớn số tiền đầu tư để mở rộng phạm vi hoạt động, nhằm hoàn thành mục tiêu tiếp cận 10 triệu người đi làm tại Việt Nam học tiếng Anh.
Khởi đầu cho làn sóng thành công gọi vốn startup giáo dục Việt Nam là Topica khi gọi vốn 50 triệu đô la Mỹ từ Northstar Group vào năm 2018. Đây được xem là một trong những thương vụ đầu tư lớn trong giới khởi nghiệp giáo dục Việt Nam.
Sau khi nhận được nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài, số lượng nhân sự của Topica từng có thời điểm tăng lên 1.700 người. Topica cũng đã từng đầu tư 3,5 triệu đô la Mỹ để phát triển nền tảng học tiếng Anh trực tuyến dành cho trẻ em Kidtopi. Đây là nền tảng trực tuyến giúp cho trẻ em học tiếng Anh một thầy 1 trò với giáo viên tiểu học tại Mỹ, Canada...
Sau Topica, nhiều startup giáo dục của Việt Nam đã liên tục nhận được vốn ngoại như: Elsa, MindX, Prep, Marathon, Vuihoc...
Tại Việt Nam, Galaxy Education là đơn vị triển khai các khóa học trực tuyến trên nền tảng HOCMAI cho học sinh hơn 15 năm trước. Đến nay đơn vị này đã mở rộng chương trình học trực tuyến cho hầu hết lứa tuổi, trên nhiều lĩnh vực như giáo dục bổ trợ bậc phổ thông, giáo dục năng lực ngôn ngữ đến lập trình, giáo dục đại học. HOCMAI hiện có hơn 7 triệu học viên và 600.000 bài giảng online theo nhiều hình thức như ghi hình sẵn, trực tuyến với giáo viên...
Theo báo cáo khởi nghiệp của Nextrans, trong giai đoạn 2019-2023, thị trường startup giáo dục của Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khoảng 20,2% và có khả năng đạt giá trị 3 tỉ đô la Mỹ vào năm 2023.
Còn báo cáo của Vietnam Edtech cho thấy, Việt Nam thuộc top 10 thị trường phát triển nhanh nhất ngành công nghệ giáo dục trực tuyến (Edtech) với mức tăng trưởng hơn 44% mỗi năm. Sau hai năm Covid-19, giáo dục trực tuyến trở thành một xu hướng tất yếu, đồng thời góp phần hoàn thiện nhanh chóng hạ tầng giáo dục số, giúp Việt Nam tiến nhanh và tương đối sẵn sàng cho chuyển đổi số trong giáo dục.
Đánh giá về tiềm năng của thị trường Việt Nam khi trao đổi với báo chí gần đây, bà Haina Xiang, Giám đốc Marketing khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của phần phềm học ngôn ngữ Duolingo nhận định: "Việt Nam là một trong những thị trường quốc tế quan trọng nhất của Duolingo. Đây là thị trường lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất của Duolingo tại ASEAN."
Chính vì thấy thị trường giáo dục trực tuyến của Việt Nam tiềm năng, nhiều nền tảng giáo dục trực tuyến nước ngoài đã có mặt tại đây. Năm ngoái Geniebook - nền tảng giáo dục trực tuyến của Singapore cũng đã có mặt tại Hà Nội thông qua việc mở chi nhánh tại đây để mang đến cho học sinh Hà Nội cơ hội trải nghiệm phương pháp học tập cá nhân hóa nhờ công nghệ trí tuệ nhân tạo AI.
Cũng trong năm ngoái, nền tảng giáo dục trực tuyến Đài Loan là SAT.Knowledge cũng đã mở rộng sang Việt Nam nhằm đưa các khóa học đa lĩnh vực đến nhiều người học hơn.
Chia sẻ thông tin với báo chí, ông Nguyễn Văn Hóa, Giám đốc Trung tâm phát triển Học liệu số, Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển giáo dục Hà Nội cũng nhận định, giáo dục trực tuyến có sự phát triển bứt phá từ sau Covid-19, dự đoán sẽ càng mạnh mẽ hơn vào giai đoạn 2025-2030.
Cùng chung quan điểm trên, nói tại tọa đàm "Edtech Việt Nam và xu hướng cá nhân hóa trong học tập" được tổ chức gần đây, ông Tôn Quang Cường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ giáo dục, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, sau đại dịch Covid-19, xu hướng phát triển giáo dục công nghệ (Edtech) của Việt Nam vô cùng sôi động. Sự quan tâm của các nhà đầu tư trong lĩnh vực Edtech tại Việt Nam thời gian gần đây rất lớn. Đã có khoảng 70 quỹ đầu tư rót hơn 400 triệu đô la Mỹ cho các công ty khởi nghiệp lĩnh vực Edtech tại Việt Nam.
Nhiều nguyên nhân được đưa ra cho việc Edtech Việt Nam phát triển như lượng dân số sử dụng Internet lớn, người dân sẵn sàng đầu tư cho giáo dục với mức chi ngày càng tăng cao. Trung bình một gia đình Việt Nam dành khoảng 20% thu nhập đầu tư cho giáo dục con cái, trong khi mức này ở các nước Đông Nam Á là 6-15%, theo Bain & Company.
Cần nới không gian pháp lý cho Edtech Việt phát triển
Theo Tracxn Technologies, Việt Nam hiện có khoảng hơn 300 doanh nghiệp Edtech. Với số lượng học sinh phổ thông chiếm tới hơn 20% dân số, các dòng sản phẩm Edtech tập trung vào phân khúc này là lớn nhất. Phân khúc thứ 2 nổi trội về sản phẩm công nghệ giáo dục là phân khúc đào tạo nghề, đào tạo kỹ năng, đào tạo cho người đi làm.
Số liệu từ Nextrans cho biết, các công ty công nghệ giáo dục năm 2019 đã chi đến 25% doanh thu cho việc tiếp thị sản phẩm. Đối với các công ty khởi nghiệp, số tiền này là khoảng 11,5%.
Việt Nam được đánh giá là thị trường Edtech sôi động nhất Đông Nam Á, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những rào cản về hành lang pháp lý và quy chuẩn để phát triển mạnh và bền vững.
Nói tại tọa đàm “Edtech Việt Nam và xu hướng cá nhân hóa trong học tập”, ông Nguyễn Trí Hiển, Chủ tịch Edtech Agency, chia sẻ rằng vẫn có những thách thức đang tồn tại đối với Edtech Việt Nam gồm khả năng tự học và sự hỗ trợ từ phía chính phủ.
Về phía người học, theo ông Hiển thì Việt Nam vẫn chưa có giải pháp công nhận bằng cấp thông qua việc học trực tuyến. Điều này sẽ khiến cho các mô hình Edtech không được lựa chọn ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục Đào tạo cũng có những quy định liên quan đến việc tích hợp giảng dạy trực tuyến vào lớp học. Đây là động thái tích cực khuyến khích các nhà trường ứng dụng Edtech trong giảng dạy.
Hiện nay, một số trường học tại Việt Nam đã áp dụng thí điểm việc công nhận bằng cấp thông qua các khóa học trực tuyến. Đây sẽ là kinh nghiệm để Edtech đưa ra chính sách hợp lý khi triển khai những hoạt động đào tạo, bồi dưỡng trên cái nền tảng giáo dục trực tuyến.
Các chuyên gia khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý giáo dục nên tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn nữa để các doanh nghiệp Edtech có thể cùng đồng hành với các nhà trường trong hệ thống giáo dục. Theo đó, các doanh nghiệp Edtech và nhà trường sẽ cùng đưa ra những phương án để giải quyết và phát triển các cái giải pháp công nghệ mới...
Cũng tại tọa đàm trên, ông Phạm Giang Linh, giám đốc điều hành của Galaxy Education, cho rằng các nhà quản lý cần lưu tâm đến việc giáo dục trực tuyến hơn. Việc kiểm soát và quản lý các thông tin kỹ thuật số rất quan trọng, đặc biệt là các nội dung liên quan đến giáo dục.
Bổ sung cho các ý kiến trên, tại tọa đàm, bà Đào Lan Hương, giám đốc Học viện công nghệ Teky cũng cho rằng cần phải có những giải pháp để quản lý Edtech. Bởi gần đây trí tuệ nhân tạo AI trở thành cơn sốt trên toàn thế giới. Nếu như không có các biện pháp quản lý thích hợp thì những nội dung mà AI đưa ra có thể không chính xác, thậm chí còn bị lạm dụng xuyên tạc. Do đó người học sẽ bị tổn hại bởi tiếp cận thông tin sai, không chính thống làm sai lệch về tư duy.
Bên cạnh đó, các chuyên gia còn cho rằng để giáo dục trực tuyến phát triển thì hệ thống trường công cần mở cửa để hợp tác với các đơn vị cung cấp dịch vụ giáo dục trực tuyến tư nhân. Bởi số lượng trường tư thục và trường quốc tế của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2,5 %, còn lại hệ thống giáo dục của Việt Nam là đang phụ thuộc vào hệ thống trường công.