Thứ Hai, 22/09/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Thời cơ vàng để xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường

Ngọc Thắng

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG) - Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, để có thể trở thành một quốc gia thịnh vượng, nền kinh tế cần phải tăng trưởng nhanh, bền vững và thay đổi chính mình qua việc nâng cao trình độ lao động, phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo.

Đo lường nội lực nền kinh tế

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, từ quốc gia chậm phát triển và phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng kinh tế xã hội vào những năm cuối của thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, trở thành quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi theo hướng tốt lên, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao.

Phần lớn giá trị xuất khẩu của Việt Nam vẫn thuộc về doanh nghiệp nước ngoài. Ảnh minh họa: Lê Vy

Tuy nhiên, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), đánh giá sự phát triển này chưa thực sự bền vững do nội lực chưa được phát huy đầy đủ còn phụ thuộc khá lớn vào đầu tư nước ngoài. Theo đó, khu vực FDI chiếm trên 15% GDP, khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp và hơn 70% kim ngạch xuất khẩu nhưng chủ yếu là công nghệ thấp, giá trị gia tăng không cao.

“Đây là những yếu tố không bảo đảm tính bền vững của sự phát triển”, ông Tuyển nhận xét.

Bổ sung, TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, cho biết với kim ngạch xuất khẩu bình quân khoảng 400 tỉ đô la Mỹ mỗi năm, khu vực FDI đóng góp 300 tỉ đô la. 100 tỉ đô la còn lại tới từ doanh nghiệp trong nước, gồm 50 tỉ đô la đến từ lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, với hàm lượng nội địa hóa chiếm 90%; 50 tỉ đô la tới từ lĩnh vực công nghiệp, chủ yếu từ ngành giày da, dệt may, nhựa, đồ gỗ, với hàm lượng nội địa hóa chiếm 35%. Như vậy, nếu quy đổi thực chất, chỉ khoảng 17 tỉ đô la từ xuất khẩu công nghiệp có đóng góp của Việt Nam.

“Việt Nam tự hào với việc thu hút hàng loạt doanh nghiệp FDI nhưng nếu phân tích kỹ thì Việt Nam chủ yếu gia công giá rẻ, giá trị gia tăng rất thấp và lợi nhuận thực sự nằm ở các tập đoàn nước ngoài. Việc phụ thuộc vào FDI không chỉ khiến chúng ta tụt hậu về công nghệ mà còn đánh mất cơ hội có nguồn thu bền vững, chính đáng từ chính nguồn nhân lực dồi dào”, ông Nghĩa cảnh báo.

Không những phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI mà việc phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và thiết bị công nghệ từ các quốc gia khác cũng khiến Việt Nam đối mặt với rủi ro.

Với ngành dệt may - ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu vẫn luôn là vấn đề khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của ngành dao động quanh mức 45-50%.

Điều này đồng nghĩa với việc hơn một nửa nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải và sợi vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và các quốc gia khác. Sự phụ thuộc này không chỉ làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may Việt Nam mà còn khiến ngành dễ bị “tổn thương” trước những biến động của thị trường thế giới.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may như Nghị định 111/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ, Nghị quyết 115/2020 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, Quyết định số 1643/ 2022 về Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da giày Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2035 nhưng thực tế đến nay các dự án đầu tư vào sản xuất vải, sợi công nghệ cao, thuốc nhuộm, hóa chất dệt nhuộm là những mắt xích quan trọng nhất của chuỗi giá trị lại rất khiêm tốn, cả về số lượng và quy mô vốn.

Với ngành cơ khí, PGS.TS. Lê Kỳ Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI), cho biết dù là ngành nền tảng, cốt lõi của nền công nghiệp nhưng hơn 70% thiết bị máy móc vẫn phải nhập khẩu.

Hơn nữa, ngành cơ khí còn đối mặt với một số rủi ro như thiếu vốn và nhân lực chất lượng; doanh nghiệp trong ngành chưa kết nối với nhau để tận dụng năng lực nội tại; thiếu tiêu chuẩn, thiếu đào tạo phù hợp với xu hướng sản xuất mới; chưa làm chủ thiết kế, công nghệ lõi, phụ thuộc vào đối tác nước ngoài.

“Công nghệ lạc hậu, sản xuất chủ yếu là lắp ráp, chưa làm chủ thiết kế, mã nguồn, vật liệu đầu vào. Giá thành sản phẩm cơ khí của Việt Nam cao hơn hai lần so với Thái Lan dù chất lượng tương đương”, ông Nam nói.

Xây dựng kinh tế dựa vào khoa học công nghệ và thể chế

Trong khi sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đầu vào và công nghệ chưa thể giải quyết thì gần đây, bối cảnh thế giới xuất hiện thêm nhiều biến động khó lường. Tất cả đặt kinh tế Việt Nam trước lựa chọn mang tính quyết định, là đổi mới mô hình tăng trưởng, vươn lên làm chủ khoa học và công nghệ để tự lực, tự cường hoặc chấp nhận nguy cơ bị tụt lại phía sau.

Nói về lộ trình tự lực, tự cường, ông Lê Xuân Nghĩa cho rằng trong ngắn và trung hạn, phải hướng nguồn vốn vào những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao nhất là nông nghiệp và dịch vụ.

Với kim ngạch xuất khẩu là 50 tỉ đô la, trong đó có 45 tỉ đô la của doanh nghiệp Việt Nam, ông Nghĩa kiến nghị ngân hàng nhà nước nên có định hướng hỗ trợ lĩnh vực nông nghiệp để hình thành nền tảng phát triển lâu dài. Với lĩnh vực dịch vụ, hiện chiếm gần 40% GDP, cần nâng cấp các dịch vụ như du lịch, khai thác biển, để sánh vai với các quốc gia trong khu vực.

Tuy nhiên, về dài hạn, chuyên gia này cho rằng, phải có điểm tựa khoa học công nghệ (KHCN). Chính phủ cần dành nguồn lực tương xứng cho KHCN và doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng, tránh tình trạng lập ra viện nghiên cứu nhưng các công trình nghiên cứu cứ mãi để trong… ngăn kéo.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, Tổng thư ký Hiệp hội da giày - túi xách Việt Nam, đề xuất xây dựng một trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu - phát triển và giao dịch nguyên phụ liệu phục vụ ngành thời trang nhằm tự chủ sản xuất nguyên phụ liệu trong nước, tiến tới cung ứng cho các quốc gia như Indonesia, Campuchia, Bangladesh…

Tuy nhiên, để đưa trung tâm này vào vận hành, cần có sự hỗ trợ phù hợp từ các thương vụ trong việc kết nối mô hình quốc tế và từ Bộ Công thương để xây dựng đề án tổng thể với các cơ chế và chính sách hỗ trợ cụ thể.

Bên cạnh yếu tố KHCN, ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch HĐQT Vietravel, cho rằng cần nâng cao tốc độ chuyển hóa thể chế thành cơ chế. Sau khi đã có “bộ tứ trụ cột” là bốn nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết 198 của Quốc hội, cần có các chính sách cụ thể như giảm 2% thuế, hỗ trợ cho các hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp tư nhân hoặc Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp tốt, làm ăn được trong việc đầu tư, vay vốn… hướng đến hình thành các tập đoàn kinh tế lớn.

Nói về thể chế, ông Trương Đình Tuyển cho biết, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19-NQ/CP về cải thiện môi trường kinh doanh với những tiêu chí đo lường cụ thể từ năm 2014. Dù đây là việc làm cần thiết và đúng đắn nhưng vẫn chưa theo kịp những thay đổi thực tế vì môi trường kinh doanh không thể vượt qua thể chế.

“Thể chế tạo ra khuôn khổ, định ra giới hạn cho môi trường kinh doanh. Chính phủ cần dựa vào các nội dung cam kết về thể chế trong các hiệp định Mậu dịch tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA) để thực hiện cải cách. Mặt khác, cần chú ý đến hai nội dung quan trọng khác là chế độ sở hữu và cơ chế quản trị quốc gia”, ông Tuyển nói.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới