(KTSG Online) – Việc đẩy mạnh chính sách hỗ trợ, xúc tiến thương mại và tháo gỡ khó khăn về thị trường và tiếp cận vốn sẽ giúp các doanh nghiệp phục hồi tốt hơn trong nửa cuối năm 2023, theo các chuyên gia.
- Triển vọng kinh tế Việt Nam và khu vực châu Á: Vẫn tiếp tục phục hồi trong bối cảnh nhiều bất định
- Đề xuất Quốc hội cho kéo dài chương trình phục hồi kinh tế
Sáu tháng đầu năm 2023, tăng trưởng GDP đạt 3,72%, chỉ cao hơn mức 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020, là mức đáy của giai đoạn 2011–2023 do dịch Covid-19 xuất hiện, theo Tổng cục Thống kê.
Bức tranh doanh nghiệp cũng không có nhiều nét tích cực khi số doanh nghiệp gia nhập và quay trở lại thị trường trong 6 tháng đầu năm 2023 giảm 2,9% so với cùng kỳ, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 19,7%, theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT). Tăng trưởng tín dụng quý 1 và quý 2 chỉ đạt lần lượt 2,58% và 3,13%, thể hiện khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Khó từ trong ra ngoài
Ngành dệt may trải qua nửa đầu năm 2023 vô cùng trầm lắng với hoạt động sản xuất và xuất khẩu suy giảm rất sâu. Ông Cao Hữu Hiếu, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), cho biết thị trường hiện còn khó hơn so với lúc cao điểm dịch Covid-19 với đơn hàng nhỏ lẻ, manh mún, giá gia công thấp. Thậm chí, chưa bao giờ có tiền lệ doanh nghiệp may quy mô vài ngàn lao động phải nhận đơn hàng với đơn vị 500-1.000 áo jacket, nhưng giờ phải làm, vì nếu không làm thì “khách không biết đến mình và doanh nghiệp sẽ không có đơn hàng”.
Đơn giá gia công hàng may cũng giảm rất sâu, có những mã hàng giá gia công tại một số doanh nghiệp giảm đến 50% so với cùng kỳ năm 2022. Chẳng hạn, một sản phẩm trước đây có giá gia công là 1,7-1,8 đô la Mỹ thì nay giảm còn 85-90 xu Mỹ.
“Dù đã dự báo trước tình hình này từ quý 4-2022, nhưng diễn biến thực tế còn khốc liệt gấp bội phần", ông Hiếu cho biết.
Bên cạnh ngành dệt may, ngành sợi Việt Nam từng kỳ vọng vào động thái mở cửa trở lại của Chính phủ Trung Quốc. Nhưng sự kiện này cũng tạo áp lực rất lớn với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam do giá bán cho đối tác tại Trung Quốc cao hơn giá do các nhà cung ứng tại quốc gia này đưa ra.
Không chỉ dệt may và sợi, những khó khăn về thị trường, khi EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản đều giảm mua hàng từ Việt Nam, khiến 5 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 10 tỉ đô la đều ghi nhận mức giảm 8,2%-17,9% về giá trị xuất khẩu so với cùng kỳ năm 2022.
Cụ thể, xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt 24,3 tỉ đô la trong 6 tháng đầu năm 2023, giảm 17,9%; máy vi tính, điện tử và linh kiện đạt 25,2 tỉ đô la, giảm 9,3%; máy móc thiết bị phụ tùng khác đạt 19,73 tỉ đô la, giảm 8,2%; dệt may, giày dép lần lượt đạt 15,75 tỉ đô la và 10 tỉ đô la, giảm lần lượt 15,3% và 15,2%.
Với ngành bất động sản, số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh cho thấy ngành tiếp tục chịu áp lực và ảnh hưởng nặng nề nhất trong các ngành với số doanh nghiệp gia nhập thị trường và vốn đăng ký thành lập mới giảm lần lượt 59% và 54% so cùng kỳ năm ngoái. Xu hướng doanh nghiệp rút khỏi thị trường tiếp tục tăng với lượng doanh nghiệp rút lui trong nửa đầu năm 2023 cao hơn 40% so với cùng kỳ năm 2022, mức cao nhất trong 17 lĩnh vực, ngành nghề.
Hiệp hội môi giới bất động sản Việt Nam trong báo cáo đưa ra đầu tháng 6-2023 cũng đánh giá các doanh nghiệp địa ốc đồng loạt rơi vào trạng thái "như người sắp chết đuối".
Còn ông Nguyễn Văn Đạt, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần phát triển bất động sản Phát Đạt, cho biết ngành phải đối mặt với nhiều thách thức chưa từng có trong vòng một thập kỷ qua. Phát Đạt cũng không nằm ngoài vòng xoáy khốc liệt đó khi phải giải quyết nhiều bài toán nan giải và gấp rút trong bối cảnh kịch bản ứng phó rủi ro, kế hoạch dự phòng trước đó gần như bị vô hiệu hóa.
Cụ thể, khi thị trường tài chính và bất động sản gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp đã phải tái cơ cấu đòn bẩy tài chính và thực hiện cam kết thanh toán với nhà đầu tư qua việc liên tục mua lại nhiều lô trái phiếu trước thời hạn và tất toán các khoản vay đến hạn.
“Doanh nghiệp có dày dặn kinh nghiệm đến đâu cũng phải đối diện với những biến số nằm ngoài tầm kiểm soát”, ông Đạt nói cho biết yêu cầu quan trọng nhất mà HĐQT đặt ra trong bối cảnh này là giữ vững nền tảng công ty.
Đồng quan điểm, Ông Nguyễn Hoàng Hải, Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản thuộc Bộ Xây dựng, cho biết nhiều doanh nghiệp phải thay đổi phương án kinh doanh, quản lý. Trong đó, phần lớn doanh nghiệp phải tái cơ cấu nợ, tái cơ cấu hoạt động kinh doanh, thu hẹp quy mô đầu tư sản xuất kinh doanh, tinh giản tối đa bộ máy, giảm lực lượng lao động.
Thậm chí, nhiều doanh nghiệp dừng triển khai các dự án mới, dừng phát hành cổ phiếu tăng vốn. Có doanh nghiệp giảm đến 50% lực lượng lao động để ứng phó với điều kiện khó khăn hiện tại.
Thực tế, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế sau giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ.
Tuy nhiên, bên cạnh chính sách gia hạn, miễn, giảm và gia hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất với quy mô khoảng 233.000 tỉ đồng năm 2022 và 100.000 tỉ đồng năm 2023, giúp giảm nghĩa vụ đóng góp của doanh nghiệp và người dân, góp phần hỗ trợ phục hồi sản xuất - kinh doanh thì một số chương trình triển khai chưa hiệu quả. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay 2% với doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh mới giải ngân gần 256 tỉ đồng, bằng 0,64% tổng số tiền; chính sách hỗ trợ tiền nhà cho người lao động giải ngân khoảng 4.800 tỉ đồng, bằng 57% tổng số tiền nhưng đã hết thời gian thực hiện chính sách.
Bên cạnh tác động từ chính sách hỗ trợ, các chuyên gia cho rằng bối cảnh thế giới biến động phức tạp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho rằng kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm và còn nhiều bất định đã tác động đến tình hình sản xuất trong nước. Lạm phát tăng cao tại một số thị trường nhập khẩu lớn cũng dẫn đến nhu cầu tiêu dùng thắt chặt hơn, ảnh hưởng đến cơ hội xuất khẩu và khai thác thị trường của các doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ thắt chặt tác động mạnh đến các doanh nghiệp, các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu.
“Khó khăn thấy rõ ở khu vực công nghiệp khi tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa giảm tới 15,2% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu ở nhóm doanh nghiệp gia công, chế biến trong bối cảnh thị trường châu Âu, Mỹ không khởi sắc như kỳ vọng và đơn hàng giảm sút”, bà Hương phân tích.
Với nội tại nền kinh tế, vị này cho rằng xu hướng phục hồi sản xuất trong các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là có, nhưng chưa thực sự bền vững. Sức bật của các ngành kinh tế công nghiệp chủ lực như dệt may, chế biến thực phẩm, sản xuất sản phẩm điện tử, chế biến gỗ, sản xuất ô tô, sản xuất kim loại còn khá yếu.
Còn Cục Quản lý đăng ký kinh doanh nhận định khó khăn về đơn hàng, tồn kho tăng, giá nguyên liệu tăng cao, trong khi sức mua yếu là những nguyên nhân khiến doanh nghiệp giảm nhu cầu vay vốn mới.
Tổng kết, TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng của BIDV, cho rằng năm nay tình hình thế giới khó khăn, doanh nghiệp thiếu đơn hàng, tác động đến xuất - nhập khẩu. Nhưng một trong những lý do chính khiến tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam giảm sút là nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào FDI, xuất khẩu và một số đối tác, thị trường chính. Trong đó, có 6 nhóm thị trường chính chiếm hơn 70% thị phần xuất khẩu của nước ta.
Ngoài các thách thức trên, ông Lực cũng đề cập đến một số thách thức khác đang hiện hữu mà nhiều doanh nghiệp quan tâm gồm điện, thị trường bất động sản, thị trường trái phiếu, thị trường lao động. Trong khi đó, thực lực của doanh nghiệp về vốn, công nghệ, lao động, tự chủ nguyên vật liệu đầu vào, nhất là công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém.
Tìm lối ra cho doanh nghiệp
Để giúp nền kinh tế và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp cho rằng các chính sách hỗ trợ, xúc tiến thương mại và tháo gỡ khó khăn về thị trường cho các doanh nghiệp cần được các bộ, ngành đẩy nhanh hơn. Bởi, khi có thêm những giải pháp thúc đẩy đầu ra, doanh nghiệp mới có nguồn lực trả nợ, hấp thụ vốn mới.
TS Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), cho rằng cần có những chính sách thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thậm chí triển khai “ngoại giao đơn hàng” như đã từng làm “ngoại giao vắc-xin” để tháo gỡ ách tắc đầu ra xuất khẩu.
Ngoài ra, cần rà soát, đánh giá các rào cản thương mại và đầu tư cũng như các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng hóa/dịch vụ của các Hiệp định tự do về Thương mại và Đầu tư mà Việt Nam đã ký kết, của các đối tác thương mại/đầu tư quan trọng và tiềm năng của Việt Nam. Chẳng hạn, chiến lược thương mại và đầu tư mới của EU. Đây là cơ sở để chiến lược và chính sách cụ thể nhằm tận dụng lợi thế các hiệp định thương mai tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết/tham gia, nhất là các hiệp định thương mại tư do mới như EVFTA.
Đề xuất của ông Việt được đưa ra trong bối cảnh mức độ hưởng lợi khi tham gia FTA của Việt Nam không cao như kỳ vọng do tỷ trọng đầu vào nước ngoài trong hàng xuất khẩu lớn, dẫn tới nguy cơ hàng hoá khó đáp ứng được các yêu cầu về về quy tắc xuất xứ với quy định hàm lượng nội địa hóa tối thiểu hoặc giá trị gia tăng cần thiết để sản phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi.
Về phía doanh nghiệp, Vinatex cho biết sẽ tập trung vào các giải pháp chính gồm tiếp tục linh hoạt ứng phó với những diễn biến bất ổn, bất định của thị trường, thường xuyên dự báo cập nhật nhanh tình hình thị trường dệt may thế giới và trong nước, ưu tiên giữ vững lực lượng lao động trên cơ sở cân đối giữa việc làm và thu nhập, bảo toàn nguồn nhân lực để sẵn sàng “đón” cơ hội khi thị trường phục hồi; tiếp tục đầu tư theo hướng xanh hóa dệt may…
Theo Tổng giám đốc Vinatex, trong giai đoạn tới, nhất là bối cảnh châu Âu đã và đang áp dụng các quy định về sản xuất dệt may tuần hoàn, sản xuất xanh, các đơn vị trong toàn hệ thống đang nghiên cứu về các công nghệ mới để sản xuất nhằm đón đầu xu hướng để nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.
Với lĩnh vực bất động sản, GS. TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý khoa học thuộc Trường Đại học Kinh tế quốc dân, cho rằng đây là ngành có khả năng lan tỏa đến nhiều ngành kinh tế quan trọng như tài chính, ngân hàng, du lịch, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng nên cần có giải pháp tháo gỡ mạnh mẽ để phục hồi lĩnh vực này trong bối cảnh xuất khẩu gặp khó khăn do tiêu dùng thế giới giảm, đầu tư công hầu như chưa năm nào đạt kế hoạch, tiêu dùng nội địa phụ thuộc vào thu nhập của người dân.
Theo ông Thành, điểm yếu nhất của thị trường này đã được chỉ ra là cung mất cân bằng, cụ thể là phân khúc cao cấp dư hàng, nhưng cầu rất thấp; trong khi nhà ở xã hội, nhà ở dành cho người có thu nhập từ trung bình trở xuống và nhà ở cho thuê có nhu cầu vô cùng lớn, song nguồn cung lại thiếu trầm trọng. Điểm yếu thứ hai là thiếu vốn, đặc biệt là nguồn vốn trái phiếu doanh nghiệp. Để tháo gỡ lĩnh vực bất động sản thì phải giải quyết hai điểm yếu kể trên.
Thực tế, chưa bao giờ Chính phủ và Thủ tướng đặc biệt quan tâm và đưa ra nhiều giải pháp tháo gỡ với lĩnh vực bất động sản như hiện nay. Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11-3-2023 được Chính phủ ban hành với nội dung yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải tập trung cao độ, tháo gỡ vướng mắc cho các dự án đang triển khai để sớm hoàn thành, tạo nguồn cung cho thị trường. Đồng thời, không siết chặt nguồn vốn tín dụng, trái phiếu, chứng khoán. Như vậy, việc khơi thông dòng vốn cho thị trường bất động sản sẽ góp phần tăng thanh khoản cho thị trường.
Sau khi Nghị quyết 33 được ban hành, nhiều bộ, ngành đã có những động thái tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung, thị trường bất động sản nói riêng. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 02/2023 với nội dung cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất – kinh doanh và khách hàng gặp khó khăn trả nợ vay phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng.
Trước đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 08/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.
“Tôi kỳ vọng hai chính sách quan trọng này sẽ tháo gỡ được nguồn vốn tín dụng, trái phiếu doanh nghiệp cho thị trường bất động sản. Khi thị trường này phục hồi sẽ kéo theo hàng loạt ngành nghề, lĩnh vực khác phát triển”, ông Thành cho biết.
Cũng theo ông Thành, trong ngắn hạn, các cơ quan hữu quan cần cơ quan quản lý tiếp tục ra soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục hành chính trong đầu tư kinh doanh bất động sản theo hướng công khai, minh bạch, giản tiện cho nhà đầu tư và rút ngắn thời gian thực hiện.
“Cần tổ chức rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định mâu thuẫn chồng chéo trong đăng ký bất động sản, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong các quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ, các quy định về hỗ trợ tín dụng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người mua nhà và nhà đầu tư nhanh chóng tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng. Đồng thời, cần nghiên cứu chỉnh sửa các bộ luật liên quan theo hướng phù hợp với thực tiễn và đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật”, ông Thành đề xuất.
Với cộng đồng doanh nghiệp nói chung, TS Nguyễn Quốc Việt cho rằng cần quan tâm giải quyết các khó khăn tài chính cho doanh nghiệp qua các giải pháp hỗ trợ giãn nộp thuế, phí với thời gian đủ dài để doanh nghiệp phục hồi. Đồng thời, kéo dài chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng trong năm 2023, bổ sung thêm chính sách hỗ trợ trong trả lương cho người lao động, hỗ trợ về bảo hiểm xã hội như giảm mức đóng thay vì chính sách không tính lãi cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã được giãn nợ, cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn giảm phí, không phạt trả chậm tín dụng, giữ nguyên nhóm nợ với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 để có thêm thời gian phục hồi trả nợ và khắc phục nợ xấu.