Tìm giải pháp môi trường cho dự án than Sông Hồng
Tấn Đức
(TBKTSG) - Hai tập đoàn Dầu khí và Công nghiệp Than - Khoáng sản đã ký thỏa thuận hợp tác khai thác than ở đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khai thác được mỏ than này hay không thì đến nay vẫn còn là ẩn số. Khó khăn chính không phải ở kỹ thuật khai thác, mà chính là chọn kỹ thuật nào để có thể giới hạn những tác động đến môi trường ở mức chấp nhận được.
Bể than đồng bằng sông Hồng có trữ lượng khoảng 210 tỉ tấn, gấp bảy lần so với vùng than Quảng Ninh, trải dài trên diện tích 2.700 ki lô mét vuông thuộc ba tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định. Khác với vùng mỏ Quảng Ninh, vỉa than ở đồng bằng sông Hồng năm sâu dưới lòng đất từ 150 đến hơn 1.000 mét.
Cho đến nay, những mỏ than loại này đều áp dụng công nghệ khai thác hầm lò, nhưng gần đây thế giới đã nghiên cứu thành công công nghệ khai thác mới theo phương pháp khí hóa than dưới lòng đất, nghĩa là đốt cháy than ngay dưới lòng đất để thu về những loại khí có thể cháy được. Tuy nhiên, cả hai phương pháp này đều có thể gây ra những tác động xấu về môi trường, nếu không tìm được giải pháp kỹ thuật thích hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang là nước xuất khẩu than. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ trong nước, đặc biệt là cho ngành điện, đang tăng rất nhanh. Trước đây, Bộ Công Thương dự báo đến năm 2015 sản xuất than ở Quảng Ninh sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu nội địa và sẽ phải nhập khẩu. Trong thực tế, Việt Nam có thể phải nhập than sớm hơn dự kiến. Nhưng nhập cũng không dễ.
Theo tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), cả TKV và tập đoàn Điện lực đã đàm phán với nhiều đối tác nước ngoài về vấn đề này, nhưng khả năng nhập được rất hạn chế, do các nước xuất khẩu chủ chốt không còn đủ nguồn để bán cho Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, khai thác được bể than lớn ở đồng bằng sông Hồng sẽ rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế, giảm lệ thuộc vào nguồn năng lượng bên ngoài và giá than cũng rẻ hơn so với nhập khẩu nhờ giảm chi phí vận chuyển.
Với mục tiêu tìm được giải pháp công nghệ và kỹ thuật khai thác vừa hiệu quả, vừa ít ảnh hưởng xấu tới môi trường, TKV đã trình đề án lên Hội đồng thẩm định Nhà nước và gửi đến nhiều cơ quan khác nhau. Đến nay, đã có 17 tổ chức và cá nhân phản hồi nhận xét, góp ý và phản biện đối với đề án này, trong đó các vấn đề bảo vệ môi trường, nguồn nước, chống sụt, lún mặt đất và bảo tồn diện tích đất canh tác lúa được quan tâm nhiều nhất.
Theo Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, không nên áp dụng phương pháp khai thác hầm lò, vì dễ xảy ra tai nạn lao động. Phương pháp khí hóa than ngầm tỏ ra khả thi hơn, nhưng quá trình sản xuất ra nguyên liệu để khí hóa than cũng có thể gây ra các tác hại về môi trường, nếu không có giải pháp xử lý triệt để.
Bên cạnh đó, các khí thu được từ công nghệ khai thác này, trong đó có CO, rất độc, nên việc quản trị rủi ro để tránh rò rỉ ra môi trường là rất quan trọng, nhất là trong điều kiện bể than này nằm ở vùng kiến tạo hoạt động mạnh, có nhiều khả năng xảy ra động đất. Ngoài ra, vấn đề sụt, lún mặt đất cũng đặc biệt được quan tâm. Việc khai thác sẽ tạo ra những ô rỗng lớn dưới lòng đất, nên vấn đề được đặt ra là phải nghiên cứu kỹ nên khai thác ở độ sâu bao nhiêu, kỹ thuật như thế nào để tránh nguy cơ này.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng, đơn vị chủ trì soạn thảo đề án, cho biết đang xây dựng báo cáo môi trường chiến lược cho dự án. Ông khẳng định, việc khai thác than ở đồng bằng sông Hồng cần phải có giải pháp công nghệ phù hợp và kỹ thuật cao hơn rất nhiều so với khai thác than ở Quảng Ninh.
Quan điểm của ông là chấp nhận lãng phí, tổn thất tài nguyên (than) trong dự án này để bảo đảm các mục tiêu chống lún đất và bảo vệ nguồn nước.
Theo kinh nghiệm khai thác ở Quảng Ninh, nếu khai thác dưới độ sâu ít nhất 300 mét thì có thể tránh được sụt, lún, do vậy dự kiến sẽ không khai thác những vỉa than nằm cách mặt đất 150 mét. TKV cũng gợi ý áp dụng giải pháp để lại những trụ than bảo vệ để tránh sụt. Tuy nhiên, do than ở đồng bằng sông Hồng là than nâu, có độ cứng kém hơn than antraxit ở Quảng Ninh, nên việc xác định độ sâu khai thác tối ưu hay giải pháp trụ than, cũng cần phải được nghiên cứu cẩn thận.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn cho biết thêm, ngay cả khi chọn được công nghệ và giải pháp kỹ thuật được cho là phù hợp, việc khai thác cũng chỉ được tiến hành thử nghiệm ở quy mô nhỏ. Có thể đến năm 2010 sẽ tiến hành khai thác thử nghiệm bằng công nghệ khí hóa than ngầm ở Hưng Yên, đồng thời có thể sẽ thử nghiệm cả công nghệ khai thác hầm lò.
Dự kiến có bốn phương án công nghệ khai thác cần thử nghiệm. Việc khai thác đại trà chỉ được triển khai nếu thử nghiệm thành công, nhưng có thể phải đến sau năm 2025.Hiện nay, đề án khai thác than đồng bằng sông Hồng mới ở bước đầu, nên rất cần có nhiều ý kiến góp ý.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn đang mời gọi các nhà khoa học gửi báo cáo phản biện theo địa chỉ e-mail: nguyenthanhsontkv@yahoo.com, để có thể đưa ra thảo luận tại cuộc hội thảo toàn quốc sẽ tổ chức vào cuối năm nay.