(KTSG Online) – Hai năm qua, khi thông tin rừng tự nhiên có thể tính toán và bán tín chỉ carbon xuất hiện với hàng chục triệu đô la ở các tỉnh Bắc Trung bộ, nhiều chủ trang trại trồng tràm (keo) chuyên bán cho doanh nghiệp làm nguyên liệu băm thành dăm xuất khẩu đặt câu hỏi với Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online: trồng tràm thành rừng sản xuất có bán tín chỉ carbon được không?
- Đừng thấy rừng xanh mà ‘mơ’ bán tín chỉ carbon!
- Chừng nào bán được tín chỉ carbon rừng?
- Bán tín chỉ carbon rừng: Hành trình còn xa
“Mỏ carbon” trong tầm tay

Ở Việt Nam, từ miền Trung trở ra thường gọi các loài tràm là keo lá tràm (Acacia auriculiformis), keo tai tượng (A. mangium) và keo lai (Acacia hybrid). Trong Nam, cách gọi quen thuộc hơn là tràm liễu, tràm bông vàng hay tràm lai. Trong phạm vị bài viết này, người viết gọi chung là tràm.
Cây tràm vốn gắn với hình ảnh “5 năm một lứa, dăm gỗ xuất khẩu” trải dài từ Bắc tới Nam, từ miền xuôi đến miền ngược. Nhưng cùng với thị trường carbon, rừng tràm có thể mang diện mạo khác: “ngân hàng carbon” và nguồn gỗ lớn cho ngành chế biến sâu.
Một nghiên cứu do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp thực hiện gần đây cho thấy, rừng tràm chu kỳ ngắn 5 năm chỉ hấp thụ trung bình 78 tấn CO₂/ha, trong khi kéo dài chu kỳ 11 năm, tức đạt mức lấy gỗ cho chế biến đồ gỗ nội thất, đạt 221 tấn CO₂/ha – cao gấp gần ba lần. Tính bình quân, mỗi héc ta rừng tràm chu kỳ dài hấp thụ thêm 4,2 tấn CO₂ tương đương (CO₂e) mỗi năm so với kịch bản cơ sở. Nói nôm na dễ hiểu là nếu bán tín chỉ carbon thì bán cái phần hấp thụ thêm mỗi năm.
Việt Nam hiện có 4,7 triệu héc ta rừng trồng, trong đó có hơn 1 triệu héc ta là rừng tràm, ứng với chừng hơn 500.000 hộ dân có trồng tràm, như vậy có thể bổ sung 4,2 triệu tấn CO₂e mỗi năm, một khối lượng không hề nhỏ nếu quy ra tín chỉ carbon.
Nhưng, lợi ích không dừng ở carbon. Chu kỳ trồng tràm dài còn tạo ra gỗ lớn, phục vụ công nghiệp chế biến gỗ nội thất, xây dựng, có giá trị cao hơn nhiều so với dăm gỗ làm nguyên liệu giấy hay gỗ ván công nghiệp. Kết hợp với tín chỉ carbon (carbon credit) bán trên thị trường trong và ngoài nước, rừng tràm có thể trở thành “nguồn thu kép”. Với giá tín chỉ carbon quốc tế dao động 5 - 15 đô la/tấn, doanh thu tiềm năng từ rừng tràm kéo dài chu kỳ có thể lên tới hàng chục triệu đô la mỗi năm.
Cái giá phải trả không nhỏ
Cơ hội lớn nhưng không dễ tiếp cận, đó là khi một khu rừng tràm trở thành dự án carbon được công nhận, chủ rừng phải vượt qua nhiều rào cản. Một dự án carbon rừng cần đầu tư 300.000 - 400.000 đô la cho khâu thiết kế, kiểm kê và chứng nhận, kéo dài ít nhất 2 năm. Các chủ rừng có vài héc ta thì còn lâu mới có con số hàng trăm ngàn đô la.
Dự án rừng chỉ có hiệu quả nếu diện tích từ 5.000 ha trở lên, trong khi phần lớn nông dân Việt chỉ sở hữu vài héc ra rừng, đời sống người trồng rừng khó khăn, họ rất cần thu hoạch sớm, trong khi muốn bán carbon thì ràng buộc thời gian dài. Theo chuẩn quốc tế, vòng đời dự án phải từ 40 năm để đảm bảo “tính lâu dài” của tín chỉ carbon. Người trồng rừng sẽ không thể “chặt sớm, bán nhanh” khi cần vốn xoay vòng.
Để được cấp tín chỉ, lượng carbon hấp thụ phải được giám sát bằng công nghệ viễn thám, đo đạc định kỳ và kiểm toán độc lập. Yêu cầu này vượt quá năng lực của nông dân và cả nhiều doanh nghiệp lâm nghiệp trong nước.
Nói cách khác, chi phí lớn - kỹ thuật phức tạp - thời gian ràng buộc lâu dài khiến rừng tràm ở Việt Nam khó trở thành sân chơi của số đông, nếu có chắc chỉ vài công ty nhưng phải mua gom thêm rừng, mà chắc gì trường kỳ vốn nuôi rừng 20-40 năm.
Ai đủ sức nhập cuộc?

Trong bức tranh này, ba nhóm chủ thể nổi bật trong trồng rừng ở Việt Nam là nông dân nhỏ lẻ, có diện tích 2 - 3 ha, họ quen với chu kỳ 5 năm thu hoạch rừng để quay vòng vốn nhanh. Việc chờ thêm 6 năm để thu hoạch, đồng thời chấp nhận ràng buộc 40 năm, gần như bất khả thi nếu không có hỗ trợ tín dụng xanh hay cơ chế chia sẻ lợi ích.
Nhóm thứ hai là doanh nghiệp lâm nghiệp trong nước: Một số công ty nhà nước và tư nhân có thể đủ quy mô, nhưng thiếu vốn lớn và kinh nghiệm quốc tế về thị trường carbon. Việc tự thiết kế và vận hành dự án theo chuẩn VERRA (Verified Carbon Standard) hay Gold Standard để công nhận và rao bán tín chỉ carbon vẫn là thách thức lớn.
Nhóm cuối cùng là nhà đầu tư quốc tế. Đây là nhóm có lợi thế vốn, kinh nghiệm dày dạn trong các dự án REDD+ (Reducing Emissions from Deforestation and Forest Degradation – giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng) hay IFM (Improved Forest Management – quản lý rừng cải tiến). Họ sẵn sàng bỏ vốn, thiết kế và khai thác tín chỉ carbon. Nhưng hệ quả là nông dân và doanh nghiệp Việt có nguy cơ trở thành “người cho thuê đất” cho nhà đầu tư nước ngoài, lợi nhuận chảy ra ngoài.
Nếu kịch bản này xảy ra, rừng Việt hấp thụ carbon nhưng giá trị kinh tế lại không nằm trong tay người Việt.
Một chuyên gia lâm nghiệp trong một hội thảo gần đây nói về tín chỉ carbon rừng cho rằng, quan trọng không phải rừng tràm hấp thụ bao nhiêu carbon, mà quan trọng hơn là ai được hưởng lợi từ nguồn carbon đó. Nếu câu trả lời không phải là nông dân trồng rừng thì thị trường carbon rừng trồng chỉ là một “cuộc chơi xa xỉ” trên đất rừng Việt Nam.
Đừng thấy rừng tràm xanh bạt ngàn dọc dài ven núi đồi dọc theo quốc lộ 1 A hay cao tốc Bắc Nam mà mơ bán tín chỉ carbon!