(KTSG Online) - Báo cáo của 60/63 địa phương cho thấy, lượng tồn kho bất động sản tại các dự án trong quí 2-2024 vào khoảng 17.105 căn, nền. Sản phẩm tồn kho chủ yếu đa số thuộc nhóm đang triển khai dở dang.
- Tồn kho bất động sản tăng nhưng nhà ở vẫn thiếu, vì sao?
- Mất bao lâu để thị trường hấp thụ hết hàng tồn kho bất động sản?
Ngày 14-8, Bộ Xây dựng công bố thông tin định kỳ về tình hình nhà ở và thị trường bất động sản, trong đó ghi nhận từ số liệu báo cáo của 60/63 địa phương cho thấy, lượng tồn kho bất động sản tại các dự án trong quí 2-2024 vào khoảng 17.105 căn, nền, theo TTXVN.
Dẫn đầu vẫn là lượng tồn kho đất nền với 7.061 nền. Tiếp đến là nhà ở riêng lẻ tồn kho có 7.045 căn và chung cư tồn kho 2.999 căn. Theo đó, có thể thấy tỷ trọng tồn kho chủ yếu ở phân khúc bất động sản nhà ở riêng lẻ và đất nền của các dự án. Lượng tồn kho của cả hai phân khúc này đều nhiều hơn hai lần số chung cư tồn kho.
Lượng tồn kho gộp của phân khúc nhà ở riêng lẻ và đất nền trong quí 2-2024 là 14.106 căn, nền, tương đương 73% so với quí 1-2024 là khoảng 19.323 căn, nền. Mặc dù lượng tồn kho bất động sản nhà ở riêng lẻ và đất nền đã giảm so với quí trước những vẫn ở mức cao. Các số liệu này cho thấy, áp lực hàng tồn kho vẫn đè nặng. Hiện có một số doanh nghiệp bất động sản có giá trị hàng tồn kho chiếm đến hơn nửa tổng giá trị tài sản.
Bất động sản tồn kho hiện nay tập trung vào hai dạng sản phẩm đã hoàn thành để bán hoặc đang chờ bàn giao và bất động sản đang dở dang trong giai đoạn triển khai. Bất động sản dở dang là loại hình tồn kho chủ yếu và đang liên tục tăng, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Theo Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, hàng tồn kho là các sản phẩm đã hoàn thiện như chung cư, biệt thự, văn phòng không có nhiều giao dịch là do giá bán hoặc cho thuê quá cao. Cũng có trường hợp do vướng mắc thủ tục nên chưa đủ điều kiện mở bán hoặc dự án có vị trí không hấp dẫn người mua và trở thành gánh nặng nợ cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hiện các doah nghiệp bất động sản đang kỳ vọng nhiều ở các bộ luật mới ban hành vừa có hiệu lực từ 1-8-2024 như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản. Bởi những vướng mắc về thể chế, quy định sẽ dần được tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ triển khai cho những dự án đang vướng mắc trước đây.
Khi đó, tồn kho từ bất động sản đang triển khai dở dang cũng có thể sẽ được gỡ dần, chuyển sang giai đoạn hoàn thiện, giảm số lượng hàng tồn kho bất động sản của doanh nghiệp thời gian tới.
Về giá giao dịch, theo báo cáo của Bộ Xây dựng giá chung cư tăng trung bình từ 5 - 6,5% trong quí 2 tại Hà Nội, TPHCM và tăng 25% theo năm tùy từng khu vực và vị trí.
Theo Bộ Xây dựng, giá bán chung cư tăng nóng không chỉ ở những dự án mới mở bán mà còn ở nhiều căn hộ cũ, đã được qua sử dụng nhiều năm. Tuy nhiên, tình trạng này cũng chỉ xảy ra trong một giai đoạn ngắn, đồng thời có dấu hiệu chững lại vào cuối quý 2 do giá đã ở mức cao và tâm lý người mua đang ở trạng thái chờ đợi.
Đơn cử tại TPHCM, trong quí 2 cũng không nằm ngoài xu thế tăng giá. Theo khảo sát của một số tổ chức nghiên cứu thị trường, giá rao bán căn hộ chung cư phân khúc trung cấp có giá từ 35-55 triệu đồng/m2, tăng 2%; phân khúc cao cấp có giá trên 55 triệu đồng/m2, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo nhận định của các báo cáo phân tích, giá căn hộ chung cư tại TPHCM có thể sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới do nguồn cung dự án mới triển khai ra thị trường đang khan hiếm.
Không chỉ giá căn hộ tăng cao mà ở các phân khúc khác giá bán cũng đã leo thang. Trong quí 2, theo khảo sát giá bán biệt thự, nhà liền kề trong dự án đều có xu hướng tăng so với quý trước. Mức tăng của phân khúc này dao động từ 7-9% tùy vào khu vực.
“Việc tăng giá nóng tại thị trường căn hộ chung cư cũng đã có ảnh hưởng kéo theo giá nhà ở riêng lẻ, nhà liền kề tại các dự án và cả nhà ở tại các khu dân cư hiện hữu có xu hướng tăng lên”, Bộ Xây dựng nhận định.
Bất động sản công nghiệp cũng không phải là ngoại lệ. Giá cho thuê đất bình quân tại các khu công nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng từ 5-8% so với cùng kỳ năm trước. Loại hình nhà xưởng và kho xây sẵn, giá cho thuê cơ bản ổn định. Theo khảo sát, giá cho thuê bình quân tại các khu công nghiệp phổ biến hiện nay khoảng 3,5-5 đô la/m2/tháng, giá thuê cho cả chu kỳ thuê khoảng từ 135-185 đô la/m2/chu kỳ thuê.