Thứ hai, 23/12/2024
27 C
Ho Chi Minh City

Trong thế giới phân cực, tách rời của các ngân hàng trung ương

Ricky Hồ

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) - Khi đối đầu địa chính trị Mỹ - Trung ngày một gia tăng, Mỹ và đồng minh phương Tây đã thực hiện chiến thuật “tách rời” nhằm tránh phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Trên thực tế, một phiên bản “tách rời” đã diễn ra trong thế giới của các ngân hàng trung ương.

Kể từ khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Nhật Bản trải qua gần ba thập niên hầu như không có lạm phát. Thị trường vốn mạnh hơn của các nền kinh tế mới nổi cũng giúp các ngân hàng trung ương châu Á thoát khỏi bóng phụ thuộc vào phương Tây. Ảnh: Nikkei Asia

Sự phân tách trong chính sách tiền tệ đang hiển hiện. Đối mặt với lạm phát cao, các ngân hàng trung ương phương Tây tiếp tục tăng lãi suất. Trong khi đó, các ngân hàng trung ương ở châu Á, đặc biệt là Nhật Bản và Trung Quốc đang duy trì lãi suất thấp và một vài nước khác đang tìm cách cắt giảm.

Quỹ Dự trữ Liên bang (Fed) đã tăng lãi suất thêm 500 điểm cơ bản kể từ tháng 3-2022 và dự kiến tăng thêm 50 điểm trong năm nay trước khi nới lỏng chính sách vào năm tới. Tại Vương quốc Anh, trong 18 tháng gần đây, Ngân hàng Anh đã có đợt siết chặt chính sách mạnh mẽ nhất trong hơn 30 năm qua.

Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đã tăng lãi suất thêm 400 điểm cơ bản so với cùng kỳ. ECB cũng cảnh báo các nhà đầu tư không nên “đoán già đoán non” rằng ECB sẽ giảm lãi suất trong vòng hai năm tới. Các điều kiện tài chính hạn chế đã đẩy Đức vào suy thoái trong quí 1-2023, trong khi nền kinh tế Mỹ được dự báo sẽ suy giảm trong nửa cuối năm.

Trong khi đó, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBoC) là ví dụ về một châu Á tự chủ hơn. PBoC đã ba lần giảm lãi suất chính sách quan trọng và năm lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc kể từ năm 2021. Các nhà quan sát dự kiến PBoC sẽ giảm lãi suất nhiều hơn nữa trong nửa cuối năm nay. Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) cũng kiên quyết duy trì chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo, với việc Thống đốc Kazuo Ueda khẳng định rằng lạm phát cao ở nước này (cao đối với nền kinh tế số 3 thế giới nhưng vẫn ở mức trung bình so với quốc tế) có thể chỉ là nhất thời.

Các nhà kinh tế của Nomura đã gọi sự khác biệt Đông-Tây này là "sự tách rời sắp tới" của chính sách tiền tệ. Điều này chủ yếu phản ánh nhu cầu trong nước yếu hơn, lạm phát giảm nhanh hơn và dư địa nới lỏng tiền tệ lớn hơn ở các nước châu Á mới nổi.

Việc tách rời trong chính sách tiền tệ, nếu tiếp tục diễn ra, sẽ đánh dấu việc phá vỡ các khuôn mẫu của quá khứ. Rob Subbaraman, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á ngoài Nhật Bản tại Nomura, cho rằng: “Thông thường, các ngân hàng trung ương ở thị trường mới nổi đợi cho đến khi các ngân hàng trung ương ở thị trường phát triển bắt đầu thay đổi định hướng chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong việc cắt giảm lãi suất. Bởi nếu không, tiền tệ có thể chịu áp lực”.

Các nền kinh tế định hướng sản xuất ở châu Á mới nổi cũng bị ảnh hưởng nặng nề hơn do sản xuất toàn cầu đình trệ, nhu cầu điện thoại thông minh, chất bán dẫn và máy tính sản xuất trong khu vực giảm mạnh sau giai đoạn bùng nổ các năm Covid.

Agustin Carstens, người đứng đầu Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), cơ quan bảo trợ cho các ngân hàng trung ương, thừa nhận rằng con đường đã khác đối với các nền kinh tế mới nổi.

Carstens nói với Nikkei Asia: “Các thị trường mới nổi đã quen với việc chống lạm phát hơn và nhanh nhẹn hơn để đối phó với áp lực lạm phát. Họ đã không tích cực thực hiện các gói kích thích kinh tế như các nền kinh tế tiên tiến để đối phó với Covid hay cuộc chiến Ukraine. Đó là hai khía cạnh chính có thể đã tạo ra sự khác biệt giữa các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế tiên tiến”.

Sự tách biệt giữa lãi suất chính sách của các ngân hàng trung ương châu Á với Fed và ECB.

Sắc thái chung

Sự phân lập giữa các ngân hàng trung ương chính ở phương Tây với các ngân hàng của Trung Quốc và Nhật Bản là rất rõ ràng. Trong khi đó, bức tranh ở các nền kinh tế châu Á có rất ít khác biệt hơn.

Sau khi giữ nguyên chính sách trong cuộc họp thứ năm liên tiếp hôm 22-6, Thống đốc Ngân hàng Indonesia Perry Warjiyo cho biết các quyết định về lãi suất sẽ được điều chỉnh hàng tháng. Các nhà kinh tế của ngân hàng quốc tế HSBC dự báo Indonesia sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất khi “có cảm giác rõ ràng rằng lãi suất của Fed đã đạt đỉnh”.

Tại Hàn Quốc, Ngân hàng Hàn Quốc (BOK) là một trong những ngân hàng đầu tiên bắt đầu chu kỳ siết chặt. Nhưng Capital Economics hiện nhận thấy BOK có thể bắt đầu nới lỏng sớm nhất là tháng 8 sắp tới, bởi lạm phát đã giảm xuống 2,7% trong tháng 6, mức thấp nhất trong 21 tháng. Theo Capital Economics, Đài Loan dự kiến sẽ nới lỏng chính sách trong khoảng thời gian tương tự.

Theo các nhà kinh tế của Nomura, chính sách tiền tệ xoay trục vào thời điểm lãi suất của Mỹ tăng có thể sẽ kích hoạt dòng vốn lớn chảy ra khỏi các nền kinh tế mới nổi. Một số nước đã xây dựng “bộ đệm hơi”, dự trữ ngoại tệ đủ lớn để ngăn ngừa khả năng dòng vốn chảy ra ngoài ào ạt.

Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, kể từ cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997, Ấn Độ và Hàn Quốc đã tăng dự trữ ngoại hối lên hơn 20 lần. Trong khi đó, Philippines và Thái Lan đã xây dựng dự trữ lớn hơn tổng số nợ nước ngoài của họ.

“Tôi nghĩ rằng châu Á có đủ khả năng để đưa ra các chính sách tiền tệ khác nhau trong 12 tháng tới so với Fed. Tôi nghĩ rằng đây là điều tự nhiên vì quy mô các nền kinh tế châu Á đang ngày càng lớn hơn. Thị trường vốn của họ ngày càng lớn hơn. Vì vậy, họ đang trở nên ít phụ thuộc hơn vào Mỹ, bởi họ có một thị trường nội địa lớn hơn”, Subbaraman của Nomura nhận định.

Các nhà kinh tế tại HSBC, trích dẫn Indonesia làm ví dụ, đã viết rằng: “Dự trữ ngoại tệ lớn hơn có nghĩa là chính sách tiền tệ tự do hơn, thoát khỏi sự thống trị của đồng đô la. Sự độc lập này chỉ có thể tăng lên theo thời gian, cho phép Ngân hàng Indonesia tập trung hơn vào tình hình trong nước khi hoạch định chính sách tiền tệ, nhằm đạt được mức tăng trưởng tốt hơn và lạm phát trung hòa”.

Lạm phát giá tiêu dùng cốt lõi, trừ giá năng lượng và thực phẩm, tính theo phần trăm trong 18 tháng qua.

“Chim sếu lẻ bầy”

Đó chính là hình ảnh của Nhật Bản trong việc duy trì chính sách tiền tệ khác biệt so với các nền kinh tế khác.

Nhật Bản từ lâu đã áp dụng chính sách tiền tệ ngoại lệ là chịu áp lực giảm phát. Nhật Bản cũng tách khỏi chu kỳ siết chặt lãi suất toàn cầu cách đây nhiều năm, với việc ngân hàng trung ương BOJ duy trì lợi suất mục tiêu ở mức 0% đối với trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm và lợi suất âm 0,1% đối với trái phiếu ngắn hạn.

Chính sách tiền tệ siêu nới lỏng của Nhật Bản được thiết kế để thúc đẩy vay mượn và đầu tư. Chính sách này đã khiến đồng yen giảm xuống mức thấp nhất trong 32 năm so với đồng đô la vào năm ngoái và mức thấp nhất trong 15 năm so với đồng euro vào tháng trước.

Điều này đã thúc đẩy lạm phát nhập khẩu và dẫn đến kêu gọi tăng lương, làm tăng khả năng lạm phát tự duy trì lần đầu tiên sau hơn ba thập niên.

Trong tháng 5, lạm phát tiêu dùng cốt lõi (không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm tươi sống đầy biến động) đã tăng lên 4,3%, mức cao nhất trong 42 năm tại Nhật Bản. Thống đốc Kazuo Ueda của BOJ đã dự đoán rằng lạm phát cơ bản sẽ chậm lại dưới mức mục tiêu chính sách 2% trong nửa cuối năm tài chính 2023. Nhưng hiện tại, ông Ueda nói rằng "tốc độ điều tiết đã chậm hơn tôi dự đoán", một gợi ý về khả năng của một chính sách thay đổi trong tương lai.

Còn đối với Subbaraman của Nomura thì "Nhật Bản là một ngoại lệ, một trường hợp cá biệt. Nhưng có lẽ theo thời gian, điều này sẽ thay đổi”.

Sự độc đáo này của Nhật Bản làm nổi bật thực tế rằng dù có tách rời hay không, các ngân hàng trung ương phải có khả năng hành động một cách tự chủ đối với các xu hướng khu vực.

“Mỗi nền kinh tế đều khác nhau. Điều quan trọng là ngân hàng trung ương cam kết sẽ xem xét lại các chính sách của mình trong trường hợp cần thiết”, Carstens nhận định về “con sếu lẻ bầy” của Nhật Bản.

Theo Nikkei Asia

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới