Tỷ giá có thể còn biến động
![]() |
Ông Tô Hải. |
(TBKTSG) - Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tháng 1-2008 chỉ đạt 3,8 tỉ đô la Mỹ, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ (1,2 tỉ đô la Mỹ) và thấp hơn chỉ tiêu mà Quốc hội đặt ra (chỉ tiêu xuất khẩu năm 2009 là 72 tỉ đô la Mỹ, trung bình 6 tỉ đô la Mỹ/tháng).
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động thế nào đến xuất khẩu nói riêng, kinh tế Việt Nam nói chung là chủ đề cuộc trao đổi đầu năm của TBKTSG với ông Tô Hải, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Bản Việt (VCSC). Ông Hải mở đầu:
- Khủng hoảng toàn cầu và sự suy giảm nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam bởi các mặt hàng nguyên liệu chiếm gần một nửa kim ngạch xuất khẩu cả nước. Giá thép, dầu, cao su, cà phê… đều giảm. Để chống lại tác động của giảm giá và giảm cầu tiêu dùng, các nước phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu đã thực hiện hàng loạt biện pháp đối phó.
TBKTSG: Chính phủ cũng đang kích thích xuất khẩu thông qua cơ chế thuế và điều chỉnh tỷ giá. Tuy nhiên mức độ điều chỉnh vẫn đang là đề tài tranh luận của nhiều giới, nhiều ngành. Ông có nghĩ rằng sự điều chỉnh đã ở mức hợp lý?
- Ông Tô Hải: Hàn Quốc đã có động thái giảm giá đồng nội tệ khoảng 30% so với đô la Mỹ. Thái Lan, Indonesia, Philippines đã để đồng tiền của họ trượt giá 16%, 17% và 15% so với đồng đô la Mỹ.
Về lý thuyết, chính sách phá giá tiền tệ có thể giúp nền kinh tế khởi sắc do xuất khẩu được cải thiện và dựa trên chi phí của các nước khác. Có thể thấy là trước sau gì, Việt Nam cũng phải thực hiện chính sách tương tự để không làm mất đi tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu so với các nước khu vực. Năm ngoái, đồng Việt Nam chỉ giảm giá 8,5% so với đô la Mỹ. Do đó việc tiền đồng bị phá giá thêm nữa là hoàn toàn có thể.
TBKTSG: Xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chỉ một mình tỷ giá liệu có đủ sức nâng đỡ xuất khẩu?
- Tỷ giá không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng. Với Indonesia, đồng rupiah được phá giá tới 35% năm 2000 và thêm 8% năm 2001, nhưng xuất khẩu của nước này vẫn giảm mạnh từ 20% năm 2000 xuống âm 12% năm 2001.
Philippines đã giảm giá đồng peso lần lượt là 24% và 3% vào các năm 2000 và 2001, nhưng xuất khẩu vẫn giảm từ 9% năm 2000 xuống âm 16% năm 2001. Dĩ nhiên cần nhiều bằng chứng hơn về cơ cấu xuất khẩu để minh chứng cho những con số trên.
TBKTSG: Trong những năm 2000 - 2001 Việt Nam cũng điều chỉnh tỷ giá với mức độ nhẹ hơn nhiều và xuất khẩu của chúng ta đã không giảm ở mức như các nước láng giềng. Phải chăng chính sách phá giá tiền tệ không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng?
- Cuộc khủng hoảng từ Mỹ - nước tiêu thụ chính của thế giới - đang ảnh hưởng trực tiếp tới các nước xuất khẩu và buộc các nước này phải phá giá tiền tệ. Câu hỏi bây giờ là chính sách này được áp dụng như thế nào? Năm 2000 và 2001 tiền đồng trượt giá 3,5% và 3,9% so với đô la Mỹ. Và cùng thời gian đó tăng trưởng xuất khẩu của ta là 25% và 4%. Lúc đó Mỹ chỉ chiếm 7% thị phần xuất khẩu của Việt Nam. Còn hiện nay Mỹ và châu Âu chiếm hơn 30% thị phần. Con số thị phần có rất nhiều ý nghĩa.
TBKTSG: Thưa ông, điều đó có thể hiểu là tác động của cuộc khủng hoảng hiện nay đến xuất khẩu khắc nghiệt hơn năm 2001?
- Theo chúng tôi là khắc nghiệt hơn. Do đó các chính sách của Chính phủ có thể sẽ “mạnh tay” hơn. Chính phủ cũng nên thận trọng trong việc đưa ra các chính sách nhằm tránh tác động phụ của điều chỉnh tỷ giá, chẳng hạn đô la hóa hay sự tăng trở lại của lạm phát.
TBKTSG: Sự biến động của tỷ giá không thể chỉ nên đo lường bằng xuất khẩu. Những thông số khác liên quan đến cán cân thanh toán là không thể bỏ qua. Dưới góc độ công ty chứng khoán, Bản Việt nhìn nhận ra sao về dòng vốn đầu tư nước ngoài năm nay?
- Viện Tài chính Quốc tế cho biết năm 2008 khoảng 400 tỉ đô la Mỹ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được giải ngân vào các nước đang phát triển. Tỷ lệ FDI giải ngân vào Việt Nam chiếm 1-2,5% tổng nguồn vốn đầu tư vào các nước đang phát triển. Tỷ lệ giải ngân đạt cao nhất vào năm 1995, sau đó giảm nhanh chóng và giữ ở mức thấp năm 2006.
Năm ngoái tỷ lệ giải ngân vào Việt Nam đạt 2,2% tổng vốn đầu tư, khoảng 11 tỉ đô la Mỹ. Nếu lấy tỷ lệ bình quân FDI giải ngân vào Việt Nam là 1,5%, thì FDI năm 2009 dự đoán chừng 6 tỉ đô la Mỹ. Nếu lấy 2% thì được 8 tỉ đô la Mỹ. Dù lấy tỷ lệ nào, thì giải ngân FDI năm nay cũng giảm 3-5 tỉ đô la Mỹ so với năm ngoái.
TBKTSG: Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trước mắt có thể hứa hẹn một kết quả khả quan hơn không, thưa ông?
- Tôi nghĩ là không, bởi các tổ chức đầu tư đang trở nên rất thận trọng. Đầu năm 2008 công cụ bảo hiểm rủi ro tín dụng của thị trường Việt Nam (credit default swap - CDS) ổn định ở mức 1%, nhưng đến cuối năm đã tăng lên 4-5%. Nói cách khác đầu tư vào Việt Nam phải bù rủi ro và mức bù đã tăng lên thêm 3 điểm phần trăm. Vì vậy ngay cả khi chúng ta hoặc các quỹ nước ngoài huy động được vốn để bỏ vào Việt Nam, chi phí nguồn vốn này cao hơn nhiều so với trước.
TBKTSG: Thu hút vốn gián tiếp qua kênh chứng khoán đang khó khăn, nhưng trái phiếu chính phủ với độ an toàn cao có khả năng trở thành kênh dẫn vốn…
- Chúng tôi quan sát thấy khối ngoại vẫn đang bán ra trái phiếu và họ có thể chưa dừng lại. Đầu năm ngoái họ nắm trong tay 3 tỉ đô la Mỹ trái phiếu chính phủ Việt Nam, nay họ chỉ còn giữ 500 triệu đô la Mỹ. Không loại trừ khả năng họ bán ra đến hết.
Vì sao ư? Vì họ thực tế. Hiện tại lợi suất trái phiếu Việt Nam kỳ hạn 1-4 năm khoảng 8,5%, trong khi mức bù CDS 4-5%, mức bù rủi ro tỷ giá ước 3-5%. Nhìn sang Mỹ, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ loại năm năm đang là 2%. Bán trái phiếu Việt Nam, mua trái phiếu chính phủ Mỹ, cái nào chắc ăn hơn?
HẢI LÝ thực hiện
Không thể tránh khỏi tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu “Trước đây nhiều người vẫn hoài nghi liệu kinh tế Việt Nam có phải đối mặt với khủng hoảng toàn cầu không. Trong suy đoán của họ, bên cạnh nỗi lo về tương lai ảm đạm và sự sụp đổ của thị trường tài chính, vẫn còn những hy vọng và sự lạc quan về nền kinh tế. Trong nửa đầu năm 2008, gần một năm kể từ khi khủng hoảng nhà đất của Mỹ bùng nổ, hầu hết chúng ta đều quan tâm đến lạm phát cao của nền kinh tế, giá cổ phiếu giảm mạnh và những bất ổn đáng lo của hệ thống ngân hàng. Rồi FDI cam kết tăng kỷ lục, thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa, GDP vẫn tăng trưởng 6,23%. Nhiều ý kiến cho rằng nền kinh tế sẽ phục hồi khi các vấn đề trong nước được giải quyết. Ngay cả khi những ngân hàng đầu tư tên tuổi quốc tế lao đao, phá sản vào giữa tháng 9-2008, không ít người vẫn tiếp tục nghi ngờ về khả năng ảnh hưởng của khủng hoảng thế giới đến Việt Nam. Thứ nhất, khả năng tác động của thế giới đến Việt Nam có vẻ không cao. Thứ hai, sự liên thông của hệ thống ngân hàng và tài chính với thị trường chứng khoán phái sinh là không đáng kể. Cuối cùng, có lẽ chúng ta đã có nhiều bài học từ các nước đang phát triển trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Nhiều người tự tin về khả năng miễn nhiễm trước khủng hoảng của nền kinh tế. Tuy nhiên từ tháng 10-2008 đến nay, sự lạc quan dường như không còn nữa. Kinh tế nội địa không thể tránh khỏi tác động từ kinh tế toàn cầu. Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu phản ánh những tin tức từ thị trường thế giới vào giá cổ phiếu. Chỉ trong vài tuần ngắn ngủi, mức độ tương quan giữa VN-Index và chứng khoán thế giới tăng trên 50%. Thị trường tín dụng cũng trầm lắng khi ngân hàng e ngại cho vay vì sợ rủi ro. Tình hình có vẻ chưa thể sáng lên khi các tổ chức chuyển sang bán ròng cả cổ phiếu và trái phiếu. Từ lạm phát cao ngất ngưởng, chúng ta đột ngột phải đối mặt với nguy cơ thiểu phát. Đó là minh chứng rõ nhất cho tác động sâu của khủng hoảng toàn cầu đến kinh tế Việt Nam”. Tô Hải, Tổng giám đốc VCSC |