(KTSG) - Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) trình Quốc hội mở ra hướng tiếp cận mới: thay vì chỉ “chôn cất” doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, sẽ tạo cơ chế “cấp cứu” trước khi “tuyên bố tử”. Nhưng để chủ trương này không biến thành hình thức, cần hàng rào kỹ thuật chặt chẽ và tiêu chí phục hồi rõ ràng.
- Luật Phá sản – khi ‘liều thuốc đặc trị’ bị lạm dụng
- Số lượng doanh nghiệp phá sản tăng nhanh ở các nền kinh tế phát triển

10 năm sau khi Luật Phá sản 2014 ra đời, việc xử lý các vụ việc phá sản vẫn ì ạch. “Doanh nghiệp rời thị trường rất nhiều nhưng số nộp đơn ra tòa để giải quyết theo thủ tục phá sản rất ít. Giai đoạn 2015-2025, tòa chỉ thụ lý đơn hơn 1.500 vụ. Số đủ điều kiện để mở thủ tục phá sản khoảng 10%, tức 150 doanh nghiệp, số được tuyên phá sản chỉ hơn 50 doanh nghiệp”, ông Đồng Ngọc Ba, Ủy viên chuyên trách của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nói trong phiên thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) ngày 23-10-2025.
Trước đó, khi trình Quốc hội dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi), Chánh án Toàn án nhân dân Tối cao Lê Minh Trí cho biết, bên cạnh những mặt tích cực, tổng kết việc thực thi Luật Phá sản 2014 cho thấy còn nhiều điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản. Nhu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã không ít, nhưng kết quả xử lý chưa nhiều. Thời gian giải quyết một vụ việc phá sản cũng kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư.
Bởi vậy, dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) thiết kế thủ tục phá sản theo hướng linh hoạt, nhanh và hiệu quả hơn. Đặc biệt, dự thảo luật hướng đến ưu tiên “tái sinh” doanh nghiệp, theo đó, quy định thủ tục phục hồi là thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản, thay vì chỉ là một khâu trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản như hiện hành. Cùng với đó, dự thảo luật đề xuất Nhà nước có chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng, lãi suất, đất đai... để giúp doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán tự tái cấu trúc.
Nếu được thiết kế hợp lý, dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) lần này có thể là bước ngoặt về tư duy: chuyển từ “xử lý hậu quả” sang “phòng ngừa rủi ro”. Để làm được điều đó, cần một hệ thống tiêu chí, quy trình và cơ chế kiểm soát chặt, tránh biến “chính sách nhân văn” thành “cơ chế bao cấp”, có thể bị lợi dụng và lạm dụng.
Trong số các thành viên của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, cơ quan thẩm tra dự thảo luật, có hai luồng ý kiến. Một bên ủng hộ tách thủ tục phục hồi thành một quy trình độc lập, thực hiện trước thủ tục phá sản, coi đây là bước tiến về nhận thức, tạo cơ hội cho doanh nghiệp còn khả năng xoay xở. Bên kia cho rằng, cách tiếp cận này chưa phù hợp thực tiễn, có thể dẫn tới lạm dụng chính sách hỗ trợ, kéo dài quá trình giải quyết.
Cũng vậy, khi thảo luận tổ, các đại biểu Quốc hội có góc nhìn khác nhau về vấn đề này. Theo một số đại biểu, ưu tiên phục hồi doanh nghiệp là “chủ trương nhân văn”. Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân nói: “Phá sản cũng như sinh - lão - bệnh - tử của doanh nghiệp. Nếu thấy còn cơ hội cứu chữa thì phải nỗ lực như bác sĩ cố gắng giành lại sự sống cho bệnh nhân”. Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Nguyễn Hữu Toàn cho rằng, “Đây là hướng đi đúng, nhân văn và cũng đã được một số nước áp dụng”. Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định tán thành đổi tên luật thành “Luật Phục hồi và Phá sản”, để phản ánh đúng triết lý mới mà thế giới đang áp dụng: phá sản là một quá trình phục hồi, phục hồi không được mới phá sản.
Ở chiều ngược lại, Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành, hay Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Tài chính Lê Hoàng Anh cho rằng “bản chất của luật này là phá sản, không phải phục hồi”. Theo các đại biểu, nhiệm vụ cấp bách hiện nay là xử lý dứt điểm tình trạng “doanh nghiệp chết không chôn được”. Trong quá trình đó, doanh nghiệp, hợp tác xã nào có khả năng phục hồi thì mới áp dụng thủ tục phục hồi.
Đại biểu Lê Xuân Thân, Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Khánh Hòa, dẫn chứng: trong 10 năm qua, cả nước “có chưa đến 10 vụ phục hồi trước khi phá sản” - con số quá thấp để chứng minh tính khả thi của cơ chế này. “Doanh nghiệp thà giải thể cho nhanh chứ không chọn phá sản vì thủ tục rườm rà. Nếu muốn phục hồi độc lập, phải có tiêu chí rất rõ: khi nào được phục hồi, khi nào phải phá sản, để bảo đảm tính thực thi”, ông nói.
Cũng theo nhiều đại biểu, để “cấp cứu doanh nghiệp” hiệu quả, dự thảo luật cần xác định tiêu chí định lượng phục hồi: khả năng trả nợ, tỷ lệ dòng tiền dương, phương án tái cấu trúc khả thi... Đồng thời, phải trao quyền cho hội nghị chủ nợ - cơ chế thị trường để quyết định “có cứu hay không”. Bởi không thể dùng ngân sách để duy trì doanh nghiệp đã mất khả năng tồn tại thực sự.
Điều quan trọng khác là thời gian và chi phí. Một vụ phá sản kéo dài nhiều năm khiến chủ nợ mất kiên nhẫn, tài sản mất giá, người lao động thiệt thòi. Vì vậy, dù phục hồi hay phá sản, quy trình cần rút ngắn, minh bạch và có giới hạn thời gian cứng. Chỉ khi đó, thị trường mới nhìn nhận đây là công cụ bảo vệ trật tự kinh tế, chứ không phải “cánh cửa trì hoãn”. Một bài học có thể tham khảo là mô hình “Chapter 11” của Mỹ - nơi doanh nghiệp được tự tái cấu trúc dưới sự giám sát của tòa án, nhưng trong khung thời gian chặt chẽ và phải chứng minh được năng lực phục hồi.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là cơ chế bình thường để giải phóng nguồn lực, loại bỏ doanh nghiệp yếu kém, tạo cơ hội cho doanh nghiệp mới. Nhưng nếu doanh nghiệp có thể cứu được bằng tái cấu trúc, chuyển đổi mô hình, cắt giảm chi phí thì việc pháp luật “mở cửa phục hồi” là cần thiết, vì đó cũng là cách giữ việc làm, bảo vệ chuỗi cung ứng, và ổn định niềm tin thị trường.
Vấn đề nằm ở chỗ, pháp luật không nên “làm thay” thị trường. Nhà nước chỉ tạo hành lang, còn việc doanh nghiệp sống hay chết, phục hồi hay phá sản, phải dựa trên tín hiệu thị trường và quyết định của các bên liên quan. Luật càng rõ, càng minh bạch, thì doanh nghiệp càng có động lực “nộp đơn” sớm, thay vì kéo dài tình trạng nợ nần và mất thanh khoản.
Nếu được thiết kế hợp lý, dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) lần này có thể là bước ngoặt về tư duy: chuyển từ “xử lý hậu quả” sang “phòng ngừa rủi ro”. Để làm được điều đó, cần một hệ thống tiêu chí, quy trình và cơ chế kiểm soát chặt, tránh biến “chính sách nhân văn” thành “cơ chế bao cấp”, có thể bị lợi dụng và lạm dụng.
