(KTSG) - Dù xe điện thường được xem là giải pháp “xanh” để giảm phát thải khí nhà kính, nhưng các phân tích kinh tế - môi trường cho thấy bức tranh phức tạp hơn nhiều. Nếu thiếu cải cách năng lượng và chiến lược quản lý phù hợp, việc thay thế xe xăng bằng xe điện có thể dẫn đến gia tăng phát thải, thậm chí tạo ra một chu kỳ ô nhiễm mới.
Trong khi đó, ngành lâm nghiệp với tiềm năng hấp thụ CO2 hiệu quả lại chưa được khai thác đúng mức trong chiến lược giảm phát thải.
- Tốc độ phổ cập xe điện tăng nhanh ở các nước đang phát triển
- Xe điện và bài toán khó của ban quản trị chung cư

Nhận diện nguyên nhân phát thải khí nhà kính
Khi nhắc đến khí thải nhà kính (Greenhouse Gases - GHG), nhiều nhà hoạch định chính sách, thậm chí cả một số chuyên gia môi trường, thường mặc định coi ngành giao thông và tiêu dùng cuối cùng là nguyên nhân chính gây ra GHG.
Tuy nhiên, nghiên cứu năm 2017 của Dương Mạnh Hùng và Bùi Trinh, dựa trên cấu trúc bảng Input-Output (IO) năm 2012 của Tổng cục Thống kê (cũ) và số liệu từ báo cáo định kỳ của Liên hiệp quốc, đã chỉ ra rằng thực tế không hoàn toàn như vậy. Gần đây, nghiên cứu của Đàm Quang Trung và Bùi Trinh dựa trên bảng IO năm 2019 của Việt Nam và số liệu của Liên hiệp quốc cũng đưa ra kết quả tương tự.
Nghiên cứu cho thấy các ngành phát thải GHG nhiều nhất gồm xây dựng, công nghiệp chế biến - chế tạo, khai thác mỏ, điện và nông nghiệp. Đáng chú ý, để tạo ra một đơn vị sản phẩm cuối cùng, ngành điện phát thải ra môi trường lượng GHG lớn hơn đáng kể so với mức phát thải từ tiêu dùng của ngành giao thông.
Về phía cầu cuối cùng, nghiên cứu cho thấy tiêu dùng cuối cùng không phải là nguồn phát thải GHG lớn nhất, mà chính hoạt động đầu tư cho sản xuất mới là yếu tố gây phát thải nhiều nhất trong nhóm này.
Hệ số lan tỏa về sản lượng của tiêu dùng cuối cùng, đầu tư sản xuất và xuất khẩu trong nền kinh tế Việt Nam không chênh lệch quá nhiều. Tuy nhiên, xét về giá trị gia tăng, tiêu dùng cuối cùng tạo ra mức lan tỏa cao nhất, vượt trội so với hai yếu tố còn lại. Điều này cho thấy tiêu dùng cuối cùng không chỉ góp phần thúc đẩy sản xuất mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng giá trị nội địa.
Đáng chú ý, phát thải CO2 từ hoạt động đầu tư sản xuất cao hơn cả tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu. Cụ thể, mỗi triệu đồng đầu tư thải ra khoảng 0,000049 tấn CO2 - mức cao nhất trong ba yếu tố thuộc nhóm cầu cuối cùng, trong khi cùng giá trị xuất khẩu chỉ phát thải 0,000027 tấn - thấp nhất. Khi loại trừ lượng CO2 hấp thụ từ rừng, mức phát thải của cả ba nhóm đều tăng nhẹ, nhưng đầu tư sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Như vậy, trong các yếu tố của cầu cuối cùng, đầu tư cho sản xuất mới là nguồn phát thải chính, chứ không phải tiêu dùng cuối cùng.
Giải pháp hiệu quả từ rừng
Điều này gợi mở rằng, thay vì chỉ tập trung mạnh vào việc loại bỏ xe xăng, phải chăng nên tập trung phát triển ngành lâm nghiệp vừa có ích trong việc tăng trưởng GDP lại vừa là nhóm ngành hút khí thải CO2 rất tốt?
Xác định tầm quan trọng của rừng, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia chương trình “giảm phát thải khí nhà kính” thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và tăng cường trữ lượng carbon rừng gắn với sinh kế bền vững (REDD+).
Hệ số phát thải của ngành điện cao gấp gần ba lần ngành giao thông vận tải hiện. Điều đó đặt ra câu hỏi liệu việc loại bỏ sử dụng xe xăng trong ngành giao thông tại các thành phố lớn có phải là lựa chọn tốt nhất đối với giảm thiểu phát thải GHG hay không?
Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 419/QĐ-TTg ngày 5-4-2017 phê duyệt chương trình hành động quốc gia về REDD+ đến năm 2023 (sau đây gọi là NARP). Trong quá trình thực hiện NARP, việc xây dựng bảng cân đối đầu vào - đầu ra để xác định vai trò của ngành lâm nghiệp nói chung và các tiểu ngành lâm nghiệp nói riêng trong việc đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) cũng như ảnh hưởng lan tỏa (độ nhạy, tràn, giá trị tăng thêm…), hiệu quả của việc thực hiện một số chính sách và biện pháp (PAM) được đặt ra trong mục tiêu của NARP hay một số mục tiêu trong chương trình mục tiêu phát triển rừng bền vững giai đoạn 2016-2020.
Bài viết này dựa trên phân tích đầu vào - đầu ra của nền kinh tế không chỉ liên quan đến giá trị tăng thêm của ngành lâm nghiệp chiếm tỷ lệ phần trăm không nhiều trong tổng giá trị tăng thêm (GVA) hay GDP mà còn thông qua việc phân tích mối quan hệ liên ngành để chỉ ra tác động của nhóm ngành lâm nghiệp đối với kinh tế môi trường ở Việt Nam.
Có thể thấy trong bảng 1, hai đại diện của nhóm ngành lâm nghiệp có hệ số phát thải âm, có nghĩa rằng ngành lâm nghiệp có tiềm năng rất lớn đóng góp vào giảm phát thải GHG trong nền kinh tế, hay nói cách khác việc phát triển ngành lâm nghiệp là rất có lợi đối với nền kinh tế, đặc biệt là hệ số lan toả đến giá trị tăng thêm của hai ngành trong nhóm ngành lâm nghiệp đều lớn hơn ngành điện và ngành giao thông vận tải.
Tăng xe điện không đồng nghĩa giảm phát thải
Mặt khác có thể thấy hệ số phát thải của ngành điện cao gấp gần 3 lần ngành giao thông vận tải hiện nay. Điều đó đặt ra câu hỏi liệu việc loại bỏ sử dụng xe xăng trong ngành giao thông tại các thành phố lớn có phải là lựa chọn tốt nhất đối với giảm thiểu phát thải GHG hay không?
Bên cạnh đó, trong khi hệ số lan tỏa đến giá trị tăng thêm của ngành điện và ngành giao thông vận tải gần như tương đương nhau, việc loại bỏ xe xăng có thể sẽ dẫn đến những xáo trộn trong vận hành của ngành vận tải, kho bãi làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngành này và có thể hiệu quả lan tỏa đến giá trị gia tăng của ngành này bị giảm đi. Điều này cho thấy việc loại bỏ xe xăng sẽ mang lại nhiều điểm bất lợi hơn so với lợi ích kỳ vọng.
Một vấn đề khác chúng ta cần bàn tới, tăng sử dụng phương tiện động cơ điện trong giao thông sẽ tạo ra một nhu cầu lớn về nguồn điện đầu vào trong nền kinh tế, điều này tạo ra áp lực phải sản xuất nhiều điện hơn để đáp ứng nhu cầu cả trong tiêu dùng và sản xuất.
Vậy khi ngành điện tăng sản lượng thì vấn đề đặt ra là Việt Nam sẽ sử dụng phương án nào để tăng năng suất điện trong thời gian tới? Khi mà các phương án sử dụng năng lượng tái tạo ở Việt Nam như điện mặt trời, điện gió hay nhiệt điện khí vẫn còn hạn chế, tính ổn định của các nguồn này vẫn còn là thách thức lớn do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.
Nếu phát triển nhiệt điện than (chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam) thì sẽ gây ra nhiều vấn đề về môi trường đồng thời gia tăng phát thải GHG cùng các chất ô nhiễm khác. Nếu điện dùng để sạc xe điện vẫn chủ yếu đến từ nhiệt điện than thì lượng GHG phát thải không hề giảm, thậm chí còn tăng khi nhu cầu điện tăng lên nhanh chóng. Mặt khác, nếu phát triển thủy điện thì tuy rằng không trực tiếp gây ra lượng phát thải quá lớn nhưng tồn tại nguy cơ gây thiệt hại về rừng làm hạn chế những lợi ích mà ngành lâm nghiệp mang lại đồng thời thủy điện cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố thời tiết như mưa hay hạn hán, tiềm ẩn nhiều rủi ro về môi trường và thiên tai.
Việc loại bỏ sử dụng xe xăng tại các thành phố lớn thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển vào đầu tư sản xuất xe điện. Kế hoạch này tiềm ẩn nguy cơ lớn về việc phát thải nhiều hơn GHG ra môi trường (kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tư cho sản xuất mới là nguồn phát thải chính được trình bày ở trên). Thậm chí, nó còn gây ra hiệu quả ngược nếu không có những kế hoạch, chiến lược và lộ trình phù hợp. Ngoài ra, xe điện sau một thời gian sử dụng sẽ thải ra pin cũ chứa hàm lượng lớn kim loại nặng độc hại. Thiếu một hệ thống tái chế hiệu quả có thể dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và làm gia tăng phát thải GHG do quá trình xử lý không được kiểm soát. Điều đó dẫn đến khả năng làm tăng phát thải cả ở tiêu dùng cuối cùng lẫn đầu tư sản xuất trong nền kinh tế.
Việc loại bỏ xe xăng và thay thế xe điện với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển xanh, nhưng nếu thiếu sự chuẩn bị và nhận thức sai về nguyên nhân của phát thải GHG trong nền kinh tế thì có thể dẫn đến nguy cơ thay đổi hình thức chứ không thay đổi bản chất. Do vậy, chuyển đổi năng lượng và công nghệ xanh phải đi kèm với nhận thức và chiến lược quản lý toàn diện, đúng đắn, nếu không sẽ mang đến nguy cơ tạo ra một chu kỳ mới của phát thải, ô nhiễm.
Các Quốc gia Châu Âu và Nhật không hề cấm xe xăng, còn Trung Quốc cấm xe xăng và là quốc gia hàng đầu về xe điện. Nhưng nhiệt điện than chiếm hơn 60% Tổng sản lượng điện quốc gia của Trung Quốc. Kết quả các quốc gia Châu Âu và Nhật không khí trong lành còn Trung Quốc là một trong những nước ô nhiễm nhất thế giới.
Nhà sản xuất và kinh doanh đều phải lấy 1 cái gì ra, để biện minh cho mọi việc làm của họ. Chẳng có gì bằng trồng cây gây rừng, tuân thủ mọi quy tắc sống sạch, đã có từ nghìn năm qua