(KTSG) - “Việc thu hút nhân lực chất lượng cao về nước làm việc đang là hạn chế của chúng ta. Từ trước tới nay, nguồn lực trên đã bị lãng phí tương đối nhiều và điều này cần phải sớm thay đổi”, PGS.TS. Mạc Văn Tiến, Viện trưởng Viện Phát triển giáo dục nghề nghiệp và an sinh xã hội, trao đổi với Kinh tế Sài Gòn.
- Pháp - Việt Nam đẩy mạnh hợp tác và đào tạo nhân lực đổi mới sáng tạo
- WEF sẽ hỗ trợ TPHCM phát triển AI, nhân lực và chuyển đổi xanh
Xu hướng không thể đảo ngược của thị trường lao động
KTSG: Ngày 8-11-2024, một hội chợ việc làm kết nối lao động có tay nghề trở về từ Nhật Bản và Hàn Quốc với doanh nghiệp trong nước đã được tổ chức. Đây được coi là một hoạt động giúp hiện thực hóa quan điểm đưa người lao động sang các nền kinh tế phát triển làm việc để khi họ trở về sẽ bổ sung vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Ông bình luận như thế nào về quan điểm nêu trên? Tại thời điểm hiện tại, chúng ta đặt ra vấn đề này có phù hợp?
- PGS.TS. Mạc Văn Tiến: Đầu tiên, nhìn lại một chút về lịch sử. Việt Nam bắt đầu đưa người đi lao động tại Liên Xô và các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ từ những năm 1980 của thế kỷ trước (còn gọi là xuất khẩu lao động). Khi đó, đất nước ta còn khó khăn, nền kinh tế bao cấp chậm phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu công việc cho người lao động, việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc chủ yếu để giải quyết vấn đề công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các gia đình. Tất nhiên, chúng ta cũng đưa được hàng chục ngàn cán bộ, kỹ sư, quản lý, chuyên gia ra nước ngoài học hỏi, tiếp thu kỹ năng, công nghệ, trở lại đóng góp cho việc xây dựng đất nước nhưng lúc đó, việc này chưa phải là ưu tiên số một.
Sau hơn bốn thập niên, về mặt chủ quan, nền kinh tế và trình độ sản xuất tại Việt Nam đã có sự tiến bộ vượt bậc. Chúng ta có đủ năng lực và điều kiện để trang bị những kỹ năng cần thiết cho người lao động trước khi họ ra nước ngoài, đồng thời, có môi trường để người lao động trở về nước tiếp tục phát huy được kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm làm việc trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Từ khía cạnh khách quan, các nước phát triển có trình độ công nghiệp, công nghệ cao nên đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng tương xứng. Nếu không đáp ứng được yêu cầu, lao động Việt Nam sẽ khó tham gia vào các thị trường nhân lực này. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay, quan điểm đưa người lao động sang các nước phát triển làm việc để khi họ trở về bổ sung vào nguồn nhân lực chất lượng cao là hoàn toàn đúng đắn.
KTSG: Thưa ông, nhìn tổng thể, tỷ lệ lao động chất lượng cao của Việt Nam hiện đang ở mức thấp so với tương quan chung trong khu vực cũng như trên thế giới. Điều này sẽ là thách thức cho việc hiện thực hóa quan điểm nêu trên như thế nào?
- Quả thật, chất lượng thực tế của người lao động Việt Nam, dù đã được cải thiện, nhưng vẫn đang còn khá hạn chế. Theo Chỉ số Năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong nhóm nguồn nhân lực, về kỹ năng, năm 2019, Việt Nam xếp hạng 93/141 nền kinh tế được khảo sát, dù tăng 4 bậc so với năm 2018 nhưng vẫn ở nửa cuối bảng xếp hạng. Trong khu vực ASEAN, thứ hạng của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia, Lào (Đông Timor không tham gia khảo sát).
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, chúng ta phải nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông qua việc đào tạo, trang bị kỹ năng nghề nghiệp ở các trường, thông qua việc bản thân mỗi người lao động tự học tập, nâng cao năng lực làm việc của họ. Các trường nghề, với vai trò là đơn vị đào tạo nguồn lao động có tay nghề phải áp dụng các chuẩn đào tạo cập nhật với thế giới, tăng cường đổi mới chất lượng giảng dạy, đào tạo để học viên ra trường có thể gia nhập thị trường lao động của các nền kinh tế phát triển hơn.
Vậy làm sao để cải thiện khả năng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước? Hiện Việt Nam đã đạt được một số thỏa thuận hợp tác về đào tạo người lao động có tay nghề với các quốc gia như Đức, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản... Theo thỏa thuận này, chúng ta nhập chương trình, công nghệ đào tạo của họ cùng với các tiêu chuẩn đáp ứng thị trường tiếp nhận. Chúng ta chỉ cần đảm bảo đào tạo theo đúng tiêu chuẩn ngành nghề của họ, áp dụng tiêu chuẩn đầu ra tương ứng.
Tính bền vững, khả năng gia tăng giá trị, đồng nghĩa gia tăng lợi nhuận, sẽ xuất hiện nếu các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động là đối tác trung gian quan trọng, vừa có thể đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, vừa có thể đón họ về các doanh nghiêp có nhu cầu ở trong nước.
Quan trọng và hiệu quả không kém là xây dựng các chương trình hợp tác giữa các đơn vị của Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc ở nước sở tại. Hiện một số trường của Việt Nam đã tiếp nhận chuyên gia từ các doanh nghiệp châu Âu, châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản..., nhờ họ giúp các trường đào tạo nhân lực có đủ kỹ năng, năng lực làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại. Nhân lực sau đào tạo sẽ được chính những doanh nghiệp nước ngoài này tuyển dụng.
Trong xu hướng già hóa dân số cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, trình độ sản xuất, các nước phát triển đang và sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần tận dụng được cơ hội này, vừa tăng thêm số lượng việc làm, vừa mở ra những cơ hội mới cho người lao động trong nước.
Tư duy khác về xuất khẩu lao động
KTSG: Về điểm này, kể cả khi quá trình đào tạo, đưa người lao động ra nước ngoài làm việc thông suốt, để đón họ trở về, thị trường lao động trong nước phải hấp thụ được nguồn nhân lực chất lượng cao này. Sự tương thích như vậy có thể đạt được theo cách nào, thưa ông?
- Việc thu hút nhân lực chất lượng cao, gồm cả nhân lực trình độ đại học hoặc trên đại học, về nước làm việc đang là hạn chế của chúng ta. Từ trước tới nay, nguồn lực trên đã bị lãng phí tương đối nhiều và điều này cần phải sớm thay đổi.
Đối với lao động xuất khẩu, vấn đề cần được nhìn nhận từ cả hai phía. Từ chiều xuất khẩu, phải tìm hiểu nhu cầu cụ thể của thị trường lao động nước ngoài (đối với từng nước, nhóm nước) gồm ngành nghề, quy mô tiếp nhận, trình độ và kỹ năng tối thiểu theo từng ngành nghề. Nguồn nhân lực được chuẩn bị dựa trên công tác dự báo như vậy. Ngoài các chính sách điều tiết, điều chỉnh công tác đào tạo ngành nghề để phù hợp nhu cầu của nước tiếp nhận lao động, bản thân người lao động cũng cần được tiếp cận thông tin công khai, minh bạch để tự đặt mục tiêu, tự trang bị các điều kiện phù hợp, chủ động trong kế hoạch ra nước ngoài làm việc của mình.
Để tiếp nhận tốt nguồn nhân lực chất lượng cao, đã được cọ xát, học hỏi kiến thức, trang bị kỹ năng, có kinh nghiệm ở các nền kinh tế phát triển hơn, cũng phải dự báo nhu cầu của thị trường trong nước và có sự chuẩn bị tương tự. Có những ngành nghề, lĩnh vực Việt Nam đi sau các nước, vì thế, những tính toán để sử dụng được nguồn nhân lực trở về phải được đưa ra song song với kế hoạch đưa người đi làm việc ở nước ngoài. Ngoài ra, cần dự báo được các ngành nghề trong nước sẽ có nhu cầu sử dụng nhân lực chất lượng cao, từ đó, thúc đẩy việc xuất khẩu lao động thuộc các ngành nghề này. Công tác dự báo chiến lược phải được thực hiện chính xác, hiệu quả và có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp với những biến động của thị trường lao động, theo từng phân lớp của thị trường.
Như vậy, để sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao hiệu quả, chúng ta cần đổi mới công tác hoạch định chính sách đào tạo, chính sách đưa người đi làm việc ở nước ngoài và chính sách tiếp nhận, sử dụng lao động đã đi làm việc ở nước ngoài quay về nước.
KTSG: Quan sát trên thực tế, có thể thấy, một bộ phận người lao động sau khi trở về từ nước ngoài đã tận dụng được kiến thức, kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng ngoại ngữ, để tham gia vào các doanh nghiệp trong nước. Nhưng phần đông hơn vẫn đang luẩn quẩn với câu chuyện đi bán sức lao động, có thể nhiều lần ở nhiều nước, rồi tích lũy một số vốn về quê dưỡng già. Theo ông, sự thay đổi tư duy về xuất khẩu lao động có ý nghĩa như thế nào?
- Đây là một thực tế và xét từ góc độ quản lý nguồn nhân lực, là một sự lãng phí kép cả nguồn lực cá nhân và nguồn lực xã hội. Để khắc phục hạn chế này, ngoài việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã nêu, cần tăng cường công tác truyền thông để những chủ thể xã hội trực tiếp tham gia vào quá trình xuất khẩu lao động nhận thức và hướng tới tính bền vững của công việc này.
Đối với người lao động, bên cạnh mục tiêu tìm kiếm một mức thu nhập hấp dẫn hơn so với khi làm việc trong nước, phải giúp họ suy nghĩ về mục tiêu xa hơn. Đó là họ sẽ làm gì khi về lại Việt Nam, họ muốn khởi nghiệp hay muốn dùng kỹ năng, kinh nghiệm đã được trau dồi thêm tìm kiếm các cơ hội tiếp tục làm việc cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Nếu đã có mục tiêu thứ hai này, tự họ sẽ học hỏi thêm các kiến thức cần thiết và tìm kiếm các cơ hội việc làm trong nước.
Đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động, họ cũng cần thay đổi tư duy, từ bỏ lối làm ăn “ăn bánh, trả tiền” - đưa người đi rồi nhận phí môi giới, do đó, chỉ cố gắng chạy đua về số lượng, doanh số, chưa quan tâm đến cái chung là nguồn nhân lực quốc gia. Tính bền vững, khả năng gia tăng giá trị, đồng nghĩa gia tăng lợi nhuận sẽ xuất hiện nếu họ là đối tác trung gian quan trọng, vừa có thể đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, vừa có thể đón họ về các doanh nghiệp có nhu cầu ở trong nước.
KTSG: Điểm cuối cùng, thưa ông, là làm sao để người lao động Việt Nam hòa nhập được với văn hóa lao động ở các nước có trình độ cao hơn? Ông suy nghĩ như thế nào về điều này?
- Một chuyên gia Nhật Bản sang Việt Nam làm việc từng nói với tôi thế này: “Nếu các bạn (lao động Việt Nam - NV) là tờ giấy trắng thì chúng tôi có thể trang bị kỹ năng cho các bạn. Nhưng để có và giữ được văn hóa lao động, đạo đức nghề nghiệp, đó là việc mà các bạn phải tự làm”.
Việc này suy đến cùng là nhiệm vụ của giáo dục, từ bậc tiểu học cho tới trung học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, đại học, sau đại học. Đạo đức nghề nghiệp, văn hóa lao động đến từ chính các tiêu chuẩn đạo đức, văn hóa được giáo dục tại các cấp học, được xã hội hấp thu và phản chiếu lại thông qua các hành vi ứng xử trong đời sống thường ngày. Văn hóa nói chung và văn hóa nghề nghiệp nói riêng trong xã hội hiện đại là sự tổng hòa, giao thoa giữa văn hóa truyền thống Việt Nam và tinh hoa văn hóa thế giới, chỉ có vậy, chúng ta mới hội nhập thành công. Theo quan điểm của cá nhân tôi, chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn về vấn đề này.