(KTSG Online) – Sau khi tăng gần 10% tổng vốn điều lệ toàn hệ thống trong năm 2024, các ngân hàng thương mại dự kiến dự báo sẽ tiếp tục đẩy mạnh phát hành cổ phiếu và trái phiếu để tăng vốn trong năm nay, nhằm đáp ứng các chuẩn mực cao hơn và dự phòng trước những rủi ro tiềm tàng.
- Nhiều ngân hàng giảm mạnh lãi suất
- Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên tên gọi, có 20 đầu mối sau tinh gọn
Cuộc chạy đua bắt buộc
Cuộc đua tăng vốn của các ngân hàng thương mại “nóng” ngay từ những tháng đầu năm 2025, trong bối cảnh phải đẩy mạnh cung ứng vốn ra nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm ở mức 16%, và đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hệ thống.

Là ngân hàng duy nhất trong nhóm bốn ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước (Big 4) chưa cổ phần hóa, ông Phạm Toàn Vượng, Tổng giám đốc Agribank bày tỏ, đơn vị mình gặp nhiều khó khăn trong việc tăng vốn điều lệ, do hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn ngân sách Nhà nước.
Để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế và mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025, ông Vượng đã đề nghị Chính phủ bổ sung vốn tự có cho cho ngân hàng khoảng 15.000-17.000 tỉ đồng/năm. Trong đó, xem xét cấp bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận thực nộp hàng năm của Agribank, tối thiểu là 10.000 tỉ đồng/năm và thực hiện ngay trong năm 2025 để ngân hàng tập trung tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế.
Với các đơn vị khác trong nhóm Big 4, HĐQT Vietcombank đã công bố Nghị quyết về việc phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ qua phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại sau thuế, sau trích lập các quỹ lũy kế đến hết năm 2018 và lợi nhuận còn lại năm 2021. Mức tăng dự kiến là 27.666 tỉ đồng.
BIDV cũng vừa được NHNN chấp thuận tăng vốn điều lệ theo phương án phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Theo đó, ngân hàng sẽ chào bán 123,8 triệu cổ phiếu riêng lẻ cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp trong quí 1-2025 và dự kiến thu về hơn 4.803 tỉ đồng từ đợt phát hành này.
Bên cạnh kế hoạch chào bán riêng lẻ, Vietcombank và BIDV vẫn nỗ lực thực hiện kế hoạch bán 6,5% và 9% cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trong năm 2025, dự kiến thu về hơn 1 tỉ đô la Mỹ mỗi thương vụ.
Song song với giải pháp giữ lại lợi nhuận/phát hành cổ phiếu để tăng vốn cấp 1, nhiều ngân hàng lựa chọn phát hành TPDN dài hạn nhằm tăng vốn cấp 2. Trong tháng 1-2025, nhóm ngân hàng tiếp tục dẫn đầu về giá trị TPDN phát hành với hơn 5.200 tỉ đồng - chiếm 94,6% tổng giá trị phát hành mới toàn thị trường.
Đáng lưu ý, VietinBank đã phát hành thành công hai lô trái phiếu với tổng quy mô 4.000 tỉ đồng, lãi suất trong khoảng 5,73-5,83%/năm, kỳ hạn 8–10 năm. Mục đích chào bán trái phiếu ra công chúng gồm: tăng quy mô vốn hoạt động; tăng vốn cấp 2 và đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định của NHNN; thực hiện cho vay nền kinh tế.
Với mục đích tương tự, HĐQT HDBank cũng thông qua phương án phát hành trái phiếu ra công chúng với tổng giá trị tối đa 10.000 tỉ đồng trong quý 1 và 2-2025, kỳ hạn 7-8 năm và lãi suất thả nổi.
Theo các chuyên gia của VIS Rating, các ngân hàng thương mại sẽ phát hành hơn 283.000 tỉ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2 trong 1-3 năm tới. Trong đó, khoảng 55% trái phiếu tăng vốn cấp 2 mới sẽ được phát hành bởi các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước, dù chi phí vốn cao hơn so với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng.
Với các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước và ngân hàng tư nhân quy mô nhỏ, VIS Rating cho rằng việc tăng cường trái phiếu tăng vốn cấp 2 trong cơ cấu vốn nhằm khắc phục những hạn chế trong việc huy động vốn cổ phần và hỗ trợ nguồn vốn cấp 1 đang ở mức thấp.
Thực tế, dù liên dục dẫn đầu về tổng tài sản và thị phần tín dụng trong nhiều năm, nhưng các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước lại thụt lùi trong cuộc đua tăng vốn điều lệ, đứng trước nguy cơ không đạt an toàn vốn.
Chẳng hạn, Vietcombank có tỷ lệ an toàn vốn (CAR) ở mức 11,39% tính đến cuối năm 2023, đảm bảo đúng quy định hiện hành, tức tối thiểu 8%. Nhưng việc duy trì tỷ lệ này khá bấp bênh, do phụ thuộc lớn vào phần lợi nhuận sau trích lập các quỹ.
Hai ngân hàng khác là Vietinbank và BIDV có hệ số CAR lần lượt là 9,31% và 9,18% tính tới cuối năm 2023.
Bên cạnh việc duy trì tỷ lệ an toán vốn, nguồn vốn từ phát hành trái phiếu còn hỗ trợ các khoản cho vay dài hạn, qua đó đáp ứng các tỷ lệ theo quy định của NHNN, như: kiểm soát tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn dưới 30% và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi ở mức 85%.
Cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro
Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, thay vì tiền mặt, không chỉ giúp các ngân hàng tích lũy vốn tự có và cải thiện tỷ lệ CAR, mà còn giúp nhà đầu tư sở hữu thêm cổ phiếu mà không phải bỏ thêm vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu với tỷ lệ cao cũng tạo rủi ro pha loãng giá cổ phiếu, vì lượng cung hàng hoá gia tăng đột ngột và dòng tiền trên thị trường không đủ hấp thụ lượng hàng hoá mới.
Do đó, nhà đầu tư phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và tiềm năng tăng trưởng của ngân hàng trong dài hạn.
Chẳng hạn, tại một báo cáo mới phát hành, Công ty chứng khoán VNDirect đã hạ khuyến nghị từ “Khả quan” xuống “Nắm giữ” với cổ phiếu của một ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước, do chỉ số P/B (tỷ lệ giữa giá thực tế và giá trị sổ sách của cổ phiếu - PV) của cổ phiếu này hiện ở mức 1,5 - cao hơn nhiều so với mức P/B mục tiêu là 1,26 và P/B trung bình ngành ngân hàng hiện là 1,3
Bà Nguyễn Thảo Linh, chuyên viên phân tích của VNDirect cho biết, thị giá cổ phiếu hiện phản ánh phần lớn kết quả tài chính ấn tượng của năm 2024 và kỳ vọng tăng trưởng tín dụng cao nhờ đầu tư công năm 2025, cũng như kỳ vọng về mức trưởng tín dụng cao hơn, tỷ lệ nợ xấu thấp hơn, lãi suất phi rủi ro và phần bù rủi ro cao hơn.

Còn bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu MBS lại chỉ ra ba câu chuyện định hình ngành ngân hàng năm 2025, gồm: tín dụng, biên lợi nhuận ròng (NIM) và chất lượng tài sản.
Theo bà Hiền, với mục tiêu tăng trưởng GDP 8% thì tín dụng dự kiến tăng trưởng 16%, nhưng sẽ có phân hóa giữa các ngân hàng. Còn NIM của ngân hàng đạt khoảng 4,5%, trong bối lãi suất đầu vào đi ngang, lãi suất cho vay giảm.
“Những ngân hàng nào giải quyết được bài toán đầu vào - đầu ra sẽ có khả năng sinh lời cao”, bà Hiền lưu ý.
Bên cạnh đó, chuyên gia này cũng cảnh báo tỷ lệ bao phủ nợ xấu là vấn đề đáng quan ngại. Vì vậy, thay vì chỉ quan tâm tới thu nhập, nhà đầu tư nên chú ý tới những ngân hàng có chất lượng tài sản tốt.
Bên cạnh sản phẩm cổ phiếu, trái phiếu của ngân hàng đang được các nhà đầu tư cá nhân ưa chuộng, bởi đây là kênh đầu tư hấp dẫn hơn gửi tiết kiệm về lãi suất.
Chẳng hạn, trái phiếu vốn cấp 2 do các ngân hàng phát hành hai tháng gần đây thường có kỳ hạn 7-10 năm, lãi suất khoảng 5,8-7,5% trong năm đầu tiên. Trong khi đó, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng ở hầu hết các ngân hàng vẫn duy trì dưới 6%/năm.
Nhưng bên cạnh những lợi ích, các chuyên gia cũng lưu ý, trái phiếu tăng vốn cấp 2 có rủi ro cao hơn so với tiền gửi ngân hàng và trái phiếu thườn,g do có kỳ hạn dài hơn, thứ tự ưu tiên thanh toán thấp hơn trong trường hợp ngân hàng phát hành phải thanh lý tài sản.