Tiền không phải vấn đề của giáo dục
Hồng Phúc
![]() |
(TBKTSG) - Hiện nay ngân sách cho giáo dục luôn đứng đầu so với các lĩnh vực khác và chiếm trên dưới 20% tổng chi ngân sách. Tiền không thiếu, vậy thì đâu là vấn đề của ngành giáo dục.
Bức tranh ngân sách giáo dục
Từ 2001-2007, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục năm sau đều cao hơn năm trước. Tỷ trọng chi cho giáo dục đào tạo trong GDP tăng từ 4,1% năm 2001 (bằng 15,5% tổng chi ngân sách) lên 5,6% năm 2006 (18,4% tổng chi ngân sách). Năm 2007, Chính phủ đã dành tới 20% chi ngân sách cho giáo dục, đạt ngang với tỷ lệ Quốc hội đã phê duyệt cho năm 2010. Đây là các số liệu chính thức của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
So sánh với các nước thì tỷ lệ chi cho giáo dục của Việt Nam thuộc hàng cao nhất. Ví dụ, Thụy Điển là 7,4%, Cuba 9,8%, Phần Lan 6,5%, Malaysia 6,2%, Thái Lan 5,5%, Trung Quốc là 5,2%. Pháp 5,7% và Mỹ 5,1%.
Về con số tuyệt đối, ngân sách đầu tư cho giáo dục tăng từ 19.747 tỉ đồng năm 2001 lên 54.798 tỉ đồng năm 2006, tức tăng 2,8 lần.
Theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giai đoạn 2008-2012, Việt Nam dự tính tiếp tục dành 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo, dạy nghề, bao gồm chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, cải cách tiền lương. Cụ thể, năm 2008 chi 78.470 tỉ đồng, năm 2012 sẽ chi 137.566 tỉ đồng.
Đầu tư cho giáo dục đào tạo hiện bao gồm các nguồn: ngân sách nhà nước (công trái giáo dục, vay nợ, viện trợ... xổ số kiến thiết dành cho giáo dục, dịch vụ của các cơ sở giáo dục), các nguồn ngoài ngân sách như học phí, đóng góp tự nguyện, các nguồn thu dịch vụ khoa học công nghệ, đóng góp hảo tâm của các cá nhân tổ chức. Trong đó, chi từ nguồn ngân sách là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định.
Bốn năm, từ 2002 tới 2006, với khoảng 9.000 tỉ đồng công trái giáo dục, các tỉnh đã xây được hơn 60.000 phòng học, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành với gần 33.000 trường học công lập trên toàn quốc. |
Cùng với việc tăng đầu tư của nhà nước thì mức đầu tư của người dân cho giáo dục qua hình thức học phí ở trường công lập thời gian qua đã tăng từ 1.904 tỉ đồng năm 2001 lên 4.329 tỉ đồng năm 2006, tăng 2,27 lần. Điều này được lý giải do số người đi học tăng và học phí thường được thu ở mức trần của khung học phí. Năm 2001, học phí chiếm 8,2 % tổng chi cho giáo dục ở các cơ sở công lập. Năm 2006 con số này là 6,7%.
Không đủ minh bạch
Giở lại quy định về phân cấp ngân sách cho giáo dục, theo Luật Ngân sách thì hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm xây dựng dự toán ngân sách giáo dục toàn ngành và dự toán các trường, các đơn vị trực thuộc gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp trình Chính phủ. Sau khi Quốc hội thông qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính giao dự toán thu chi ngân sách giáo dục cho từng tỉnh, thành và các bộ, các ngành có trường, bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình mục tiêu quốc gia cho giáo dục, các nhiệm vụ chi đặc thù khác...
Mỗi năm vay 4.000 tỉ đồng cho giáo dục Hàng năm, Việt Nam vay của quốc tế khoảng 2,8% ngân sách nhà nước cho giáo dục. Vốn ODA từ năm 2008-2012 cho giáo dục dự kiến là 20.000 tỉ đồng (1,25 tỉ đô la Mỹ), với mức bình quân 4.000 tỉ đồng/năm. Thời gian qua, lượng vốn ODA chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn kinh phí dành cho giáo dục, bình quân chiếm 7,5-8% ngân sách dành cho giáo dục. Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai tám dự án vốn vay ODA cho các cấp tiểu học đến đại học với tổng mức đầu tư 685,345 triệu đô la Mỹ. |
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng việc quản lý ngân sách giáo dục thực tế đang rất phân tán: các địa phương quản lý 74% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục hàng năm, các Bộ, ngành khác 21%, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý 5%.
Theo tờ trình số 89/TTr-CP về Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 thì cơ chế tài chính của giáo dục thực tế vẫn chưa có thay đổi về chất so với trước đó.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về phân bổ ngân sách và quyết định giao dự toán thu chi ngân sách cho các trường và các đơn vị trực thuộc. Mức phân bổ căn cứ quy mô trường, học sinh, giáo viên, nguồn thu của trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng trực tiếp kiểm tra, thẩm định và phê duyệt quyết toán hàng năm với nguồn kinh phí này, báo cáo Bộ Tài chính và cơ quan liên quan.
Đối với chi thường xuyên cho đào tạo của các bộ ngành, Bộ Tài chính trực tiếp thảo luận với các bộ ngành, không có sự tham gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng không được giám sát chi tiêu đối với trường của bộ ngành khác.
Việc phân bổ ngân sách cho các cơ sở giáo dục như các trường phổ thông mầm non, tại các địa phương do Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh thành quyết định. Các địa phương và các Bộ, ngành khác không có báo cáo về tình hình và hiệu quả sử dụng ngân sách giáo dục cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng họ “không đủ điều kiện để đánh giá hiệu quả đầu tư của nhà nước cho giáo dục trong toàn quốc”.
Cũng theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (đội ngũ giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất...), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học ở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp và bình quân.
Nguồn từ kinh phí của người dân đóng góp Năm 2008 là 21.514 tỉ đồng; năm 2012 là 57.465 tỉ đồng, dự kiến tổng cộng từ năm 2008 - 2012 sẽ là 190.904 tỉ đồng, tương đương 2% GDP, chiếm 26,4% trong tổng chi cho giáo dục. Học phí từ các trường công thu được từ năm 2008-2012 dự kiến là 68.136 tỉ đồng, chiếm 9,4% tổng nguồn tài chính cho giáo dục (năm 2006 tỷ lệ này là 6,7%). (Nguồn: Tính toán của Bộ Giáo dục và Đào tạo) |
Bộ này cũng cho rằng việc xây dựng định mức chi và phân bổ ngân sách cho giáo dục chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công lập nhìn chung còn hạn chế về tác dụng.
Theo kết quả nghiên cứu chi tiêu tài chính của ngành thì để đáp ứng nhu cầu tối thiểu nhằm đạt chất lượng trung bình, thì tỷ trọng chi cho lương và các khoản có tính chất lương phải đạt 70%, các khoản chi nghiệp vụ hay phục vụ giảng dạy chiếm 30% chi thường xuyên đối với giáo dục phổ thông, nghĩa là tỷ trọng chi thanh toán cá nhân tối đa 70% tổng chi thường xuyên, tối thiểu 30% còn lại chi cho hoạt động nghiệp vụ, mua sắm, sửa chữa.
Tỷ lệ này đối với khối đào tạo phải là 50-50. Nhưng những năm qua ngành chỉ đủ tiền để chi cho thanh toán cá nhân, cải cách tiền lương hay phụ cấp giáo viên mà không đủ mua sắm thiết bị giảng dạy, sửa chữa trường lớp, nên cơ sở vật chất xuống cấp nghiêm trọng và tình trạng học chay, dạy chay kéo dài.
Khi đem vấn đề này trao đổi với những chuyên gia trong ngành, người viết bài nhận được câu trả lời thống nhất rằng cần đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục, song đổi mới mà chưa giải quyết được vấn đề công khai minh bạch của ngân sách giáo dục thì chất lượng của ngành giáo dục chưa thể có chuyển biến rõ rệt.