(KTSG Online) – Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam sẽ linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay và xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền với ngành lúa gạo, theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú.
- Chi phí sản xuất lúa vụ Hè thu tại ĐBSCL tăng hơn 143.000 đồng/tấn
- Đề nghị giảm lãi suất và cho thế chấp lúa gạo thu mua đối với doanh nghiệp ĐBSCL
Đã cấp hạn mức tín dụng 56.000 tỉ đồng cho việc mua lúa gạo tại ĐBSCL
Chia sẻ tại Hội nghị giải pháp của ngành ngân hàng góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành lúa gạo khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) diễn ra sáng 26-8, NHNN cho biết dư nợ ngành lúa gạo đạt 144.657 tỉ đồng tính tới cuối tháng 7-2021, tăng 11,33% so với cuối năm 2020.
Về mục đích vay vốn, dư nợ trồng, sản xuất lúa đạt 34.819 tỉ - chiếm 24,07%, dư nợ phục vụ thu mua, tiêu thụ lúa gạo đạt 97.402 tỉ đồng - chiếm 67,33%, dư nợ chế biến, bảo quản lúa gạo đạt 12.435 tỉ đồng, chiếm 8,6%.
Với khu vực ĐBSCL, dư nợ ngành lúa gạo đạt 74.139 tỉ đồng tính tới cuối tháng 7-2021, tăng 15,45% so với cùng giai đoạn năm trước và chiếm 51,25% dư nợ lúa gạo toàn quốc, theo NHNN.
Đáng chú ý, các tổ chức tín dụng (TCTD) tại ĐBSCL đã cấp hạn mức tín dụng khoảng 56.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua, tạm trữ lúa gạo tính từ đầu năm 2021 tới nay.
Còn tổng doanh số lũy kế đã giải ngân là 93.000 tỉ đồng. Số tiền này được sử dụng để thu mua gần 7,3 triệu tấn gạo.
NHNN dự báo dư nợ thu mua, tiêu thụ lúa gạo ước đạt 51.500 tỉ đồng tính đến cuối tháng 8-2021, tăng 22% so với năm 2020 và chiếm 92% hạn mức được cấp.
Về những vướng mắc của ngành lúa gạo tại ĐBSCL, NHNN cho biết việp áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 Thủ tướng tại nhiều tỉnh khiến các doanh nghiệp ngành lúa gạo gặp khó khăn trong việc thu hoạch, lưu thông, sản xuất - chế biến và xuất khẩu gạo.
Thứ nhất, các thương lái và phương tiện gặt đập liên hợp ngoài tỉnh bị hạn chế vào địa bàn, trong khi vụ lúa Hè Thu đã và đang vào thu hoạch, người dân tạm dừng hoặc không mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, trồng trọt.
Thứ hai, lưu thông hàng hóa của khách hàng gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất về thu mua lúa cho nông dân lúc này là khâu vận chuyển lúa từ ruộng về nhà máy.
Ngoài ra, các hộ nông dân thu hoạch lúa nhưng không tiêu thụ được do không thể tiếp xúc với thương lái mua. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt nghiêm trọng tài xế xe tải/container, tài công ghe/sà lan vận chuyển gạo, lúa.
Thứ ba, các địa phương áp dụng thời gian hiệu lực của xét nghiệm Covid-19 khác nhau, gây khó khăn cho các phương tiện vận chuyển.
Với 4 tỉnh gồm: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ có tình hình dịch gần giống như nhau, nhưng Đồng Tháp, Kiên Giang và Cần Thơ kia áp dụng thời gian hiệu lực của xét nghiệm Covid-19 trong 72 giờ, còn An Giang chỉ là 24 giờ.
Thứ tư, các khách hàng là doanh nghiệp đang tổ chức sản xuất theo mô hình ‘3 tại chỗ’ nên năng suất hoạt động bị giảm do thiếu hụt nguồn công nhân làm ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Thậm chí, một số nhà máy của doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do nằm trong vùng dịch.
Thứ năm, tình hình xuất khẩu gạo rất khó khăn, các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu cầm chừng vì không có nhiều đơn hàng do ảnh hưởng dịch Covid-19.
Thứ sáu, chuỗi sản xuất - cung ứng của nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy khiến hàng hóa tồn kho với số lượng lớn. Ngoài ra doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng.
Việc giảm đơn hàng, giảm sản lượng, trì hoãn, phát sinh thêm chi phí phòng chống dịch Covid-19, theo NHNN, khiến nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực thu mua và chế biến nông sản dừng hoạt động do tình hình dịch.
Thứ bảy, giá lúa gạo nhìn chung đang thấp hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng không chênh lệnh nhiều.
Để giải quyết những vấn đề này, NHNN cho rằng cần tháo gỡ các vấn đề liên quan đến thông hàng hóa và kiểm soát giãn cách xã hội. Đồng thời, xây dựng những trạm trung chuyển hàng hóa đáp ứng được hai điều kiện: đảm bảo phòng chống dịch và đảm bảo lưu thông hàng hóa.
Linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay
Nhằm hỗ trợ sự phát triển của ngành lúa gạo, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết ngành Ngân hàng sẽ triển khai một số giải pháp trong thời gian tới. Với nguồn vốn, ngành tiếp tục tập trung nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của thương nhân kinh doanh, đầu tư, chế biến thóc, gạo, người sản xuất lúa với thời hạn và lãi suất hợp lý theo Nghị định 107/2018, Nghị định 55/2018 và Nghị định 116/2018.
Đồng thời, mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ nguồn vốn thu mua, tạm trữ thóc, gạo cho người nông dân trong vụ Hè Thu và Thu Đông.
Với lãi suất, Phó thống đốc yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng Việt Nam Đồng với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó có ngành lúa gạo. Đồng thời, tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay.
Ngoài ra, các TCTD cần thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1% mỗi năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch đã đăng ký với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam theo chỉ đạo của NHNN.
Đáng chú ý, các TCTD cần linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay và xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền, theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú.
Về quy trình, thủ tục cho vay, ông Tú yêu cầu các TCTD tiếp tục cải tiến theo hướng rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng.
Ngoài ra, cần chủ động tiếp cận các doanh nghiệp, thương nhân lúa gạo và thỏa thuận các nội dung liên quan theo nguyên tắc tín dụng thương mại, phù hợp quy định pháp luật về cấp tín dụng.
Bên cạnh đó, phối hợp với các cơ quan truyền thông và chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị xã hội thực hiện các chương trình truyền thông mạnh mẽ, toàn diện để người dân, doanh nghiệp nắm bắt đầy đủ các chính sách, sản phẩm tín dụng ngân hàng và chủ động tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.