(KTSG Online) – Trong bối cảnh áp lực lạm phát ngày càng hiện hữu trong vài quí tiếp theo, mặt bằng lãi suất sẽ khó tiếp tục điều chỉnh giảm. Thị trường cần thêm những chính sách hỗ trợ khác để doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn, giúp kinh tế sớm phục hồi sau đại dịch.
Khó giảm thêm lãi suất
Khi kinh tế bắt đầu phục hồi sau nới lỏng giãn cách xã hội, doanh nghiệp và người dân chờ đợi các gói hỗ trợ chính sách mới từ phía cơ quan quản lý chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, tại buổi họp báo mới đây, ông Đào Minh Tú, Phó thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cho biết sẽ không giảm thêm lãi suất từ nay tới cuối năm, mà duy trì mặt bằng lãi suất hiện tại nhưng đồng thời tiếp tục theo dõi sát diễn biến dịch bệnh.
Cơ quan quản lý chính sách tiền tệ chưa đặt vấn đề giảm lãi suất đầu vào ở thời điểm hiện tại, để đảm bảo lợi ích của người gửi tiền. Với mức lạm phát giả định là 3% thì duy trì mức lãi suất tiết kiệm khoảng 5-5,5%/năm như hiện nay là ở mức phù hợp.
Theo Công ty chứng khoán KB (KBSV), mức lãi suất hiện nay đã làm giảm sức hấp dẫn của kênh gửi tiết kiệm, khiến một lượng tiền không nhỏ chảy vào các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán...
“Mặt bằng lãi suất huy động, vốn đang ở mức thấp, sẽ khó có thể giảm thêm và nhiều khả năng sẽ đi ngang trong quí 4 trong bối cảnh rủi ro lạm phát trong vài quí tiếp theo là hiện hữu”, KBSV đưa ra nhận định. Các dự báo lạm phát hiện nay đều xoay quanh mức trên 3%, trong khi mức mục tiêu đưa ra là 4%.
Do đó, theo đại diện NHNN, dư địa cắt giảm lãi suất sẽ đến từ việc cắt giảm chi phí hoạt động hoặc giảm lợi nhuận, tùy trường hợp cụ thể của mỗi nhà băng.
Tuy nhiên, dư địa cho các nhà băng cắt giảm lãi suất từ lợi nhuận cũng không nhiều, vì dù lợi nhuận công bố cao nhưng ngân hàng còn chịu áp lực từ lãi dự thu, trích lập dự phòng do nợ xấu.
Đợt giảm lãi suất rầm rộ nhất là từ giữa tháng 7 đến nay. Báo cáo mới nhất cho thấy 16 ngân hàng thương mại (chiếm 75% tổng dư nợ nền kinh tế) giảm lũy kế từ 15-7 đến cuối tháng 9 là hơn 11.800 tỉ đồng, đạt 57% so với cam kết đưa ra với Hiệp hội Ngân hàng.
Nhưng nếu nhìn chi tiết thì con số giảm ở từng ngân hàng là khác nhau. Các ngân hàng thương mại quốc doanh giảm nhiều hơn là ngân hàng tư nhân, cũng có ngân hàng giảm vài ngàn tỉ đồng, nhưng có ngân hàng chỉ giảm vài tỉ đồng. Dù vậy, đánh giá từ phía NHNN cho thấy quan điểm giảm là không cào bằng vì còn phụ thuộc điều kiện cụ thể của từng nhà băng.
Mặt khác, trong bối cảnh cầu tín dụng còn yếu, các ngân hàng cũng có thêm điều kiện để hạ lãi suất cho vay, nhưng mặt bằng lãi suất cho vay khó có thể giảm đáng kể. “Các ngân hàng cũng cần duy trì một mức thu nhập lãi thuần cao (tương ứng NIM duy trì ở mức cao như hiện tại), để có dư địa tăng trích lập dự phòng khi các khoản nợ xấu do giãn cách xã hội dần bộc lộ trong thời gian tới”, báo cáo của KBSV nhận định.
Chờ chính sách mới
Theo KBSV, chính sách hỗ trợ của NHNN là tương đối thận trọng kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát và vẫn duy trì đến nay. Trong năm 2020, đơn vị này đã ba lần cắt giảm lãi suất điều hành, còn trong năm nay thì vẫn chưa cắt giảm, thay vào đó là trở lại nghiệp vụ mua ngoại tệ giao ngay (ngưng hoạt động mua ngoại tệ kỳ hạn) để có thêm công cụ tác động tức thời đến thanh khoản thị trường.
Dù vậy, trong bối cảnh Việt Nam đối diện với áp lực phục hồi kinh tế trong quí 4, việc giảm lãi suất là phương án được nhiều tổ chức tính đến. Chẳng hạn, Standard Chartered mới đây đưa ra nhận định giảm lãi suất có thể xảy ra nếu tác động của dịch Covid-19 lên nền kinh tế kéo dài quá tháng 10.
“Mặc dù kỳ vọng tốc độ tăng trưởng sẽ được thúc đẩy hậu Covid-19, chúng tôi giữ một cái nhìn khá thận trọng cho đến khi các dấu hiệu hồi phục trở nên rõ ràng hơn”, ông Tim Leelahaphan, chuyên gia kinh tế phụ trách Thái Lan và Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered, đánh giá trong báo cáo hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam mới đây.
Dư địa cho tăng trưởng tín dụng cuối năm vẫn còn khá lớn, khoảng 4,5% nhưng cũng sẽ phụ thuộc vào diễn biến nền kinh tế. Theo đại diện NHNN, nếu cuối năm nhu cầu nền kinh tế cao và kiểm soát được lạm phát thì sẵn sàng mở thêm room tín dụng, nhưng cũng khẳng định sẽ không nới lỏng điều kiện vay vốn.
Cơ hội vay vốn hỗ trợ với lãi suất thấp hơn cũng đang được các nhà quản lý thảo luận, gần đây là gói 100.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất 3-4% và được lấy từ nguồn ngân sách tài chính.
Tuy nhiên, gói này được nhiều chuyên gia đánh giá là có quy mô nhỏ, chưa khả thi vì không có nguồn tiền cụ thể (lấy từ ngân sách nhà nước thì rất khó trong khi ngân hàng cũng không thể đáp ứng) và cơ chế cho vay còn nhiều tranh cãi vì lo ngại về cho vay dưới chuẩn.
Thực tế, trong cuộc họp báo mới đây, đại diện NHNN cũng có nhắc đến việc kết hợp thêm với chính sách tài khóa thay vì chỉ nhìn vào chính sách tiền tệ để hỗ trợ.
Công ty chứng khoán SSI dẫn lại ước tính của Bộ Kế hoạch Đầu tư, đánh giá các gói hỗ trợ Covid-19 trong năm 2021 là khoảng 10,45 tỉ đô la Mỹ, tương đương khoảng 2,85% GDP năm 2020, vẫn ở quy mô tương đối nhỏ so với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa hiện tại được kỳ vọng sẽ hỗ trợ trong và sau dịch, nhờ khoản thặng dự hơn 58.000 tỉ đồng trong 9 tháng đầu năm. “Không gian tài khóa của Việt Nam vẫn còn đủ mạnh để có thể thực hiện thêm các gói hỗ trợ tài khóa bên cạnh các gói chính sách như hiện tại”, SSI đánh giá.
Làm sao mà giảm lãi suất được nữa ? Lạm phát đang tăng và sẽ tăng mạnh, cho dù các nhà thống kê của ta có tính kiểu gì đi nữa thì thị trường vẫn không tin. Mặt khác, chứng khoán đang quậy tưng bừng, cám dỗ người gởi tiền, thiêu thân vào các cơn sốt đỏ đen ầm ầm mỗi ngày. Số dư tiết kiệm của dân ngày càng giảm mạnh, hệ thống ngân hàng chắc chắn lâm nguy nếu giảm thêm lãi suất. Chính sách tiền tệ đã cạn kiệt dư địa. Các nhà điều hành muốn giảm lãi suất tiền gởi để giảm lãi suất cho vay, đây là bài toán sai lầm, nếu không muốn nói là làm tan vỡ hệ thống. Để giảm lãi suất vay chỉ có một lựa chọn là cho vay cho đúng mục tiêu và hỗ trợ bằng tài khóa, chứ không bằng tiền tệ nữa.