(KTSG XUÂN) - Tất cả tùy bạn hiểu thế nào là “phát minh”.
Lý thuyết người vĩ đại đã len lỏi trở lại nền văn hóa đại chúng trong những năm gần đây, thay thế cho thế giới doanh nhân, công ty khởi nghiệp công nghệ và các tập đoàn kỹ thuật số. Elon Musk đã cách mạng hóa ô tô điện. Mark Zuckerberg đi tiên phong trong mạng xã hội. Steve Jobs và nhóm của ông tại Apple đã phát minh ra iPhone…
Những “câu chuyện anh hùng” trên thực tế đều không chính xác. Những thách thức mà thế giới phải đối mặt như khủng hoảng năng lượng, thiếu lương thực, biến đổi khí hậu, bùng nổ dân số… đòi hỏi sự cộng tác và hợp tác của tất cả chúng ta, với tư cách là công dân và quốc gia toàn cầu để giải quyết. Chúng ta cần khai thác nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho mọi nghiên cứu - đứng trên vai của những người khổng lồ, với mỗi bước đột phá mới được xây dựng dựa trên công việc của những người khác đã thực hiện trước đó. Câu chuyện ẩn giấu của iPhone là một minh chứng cho điều này.
Không thể nghi ngờ nỗ lực không ngừng và sự sáng tạo của nhiều đội ngũ tại Apple. Nhưng đã có hàng trăm nghiên cứu đột phá và sáng tạo mà nếu không có những kết quả đó thì iPhone không thể ra đời. Mỗi sáng tạo đó là kết quả của vô số nhà nghiên cứu, trường đại học, nhà tài trợ, chính phủ và các công ty tư nhân “xếp” một sáng tạo này lên trên một sáng tạo khác.
Để chứng minh điều này, dưới đây là cái nhìn sâu hơn về ba trong số những đột phá nghiên cứu tạo nền tảng cho iPhone.
Màn hình cảm ứng
iPhone sẽ không phải là iPhone nếu không có công nghệ màn hình cảm ứng mang tính biểu tượng của nó.
Màn hình cảm ứng đầu tiên thực sự được phát minh vào những năm 1960 bởi Eric Arthur Johnson, một kỹ sư radar làm việc tại một trung tâm nghiên cứu của chính phủ ở Vương quốc Anh, đã công bố khám phá của mình trong mục Lá thư điện tử xuất bản bởi Viện Kỹ thuật và Công nghệ. Bài báo năm 1965 của ông, “Màn hình cảm ứng - một thiết bị đầu vào/đầu ra mới cho máy tính” tiếp tục được các nhà nghiên cứu trích dẫn cho đến ngày nay. Bằng sáng chế năm 1969 đã được trích dẫn trên một loạt phát minh nổi tiếng - bao gồm bằng sáng chế năm 1997 của Apple cho “một điện thoại máy tính di động cầm tay”.
Kể từ bước nhảy vọt đầu tiên của Johnson, hàng tỉ đô la đã được trao cho nghiên cứu về công nghệ màn hình cảm ứng - từ các cơ quan nhà nước cũng như các nhà đầu tư tư nhân. Đại học Cambridge chẳng hạn, gần đây đã thành lập một công ty hữu hạn để đảm bảo đầu tư hơn nữa cho nghiên cứu của riêng họ về công nghệ màn hình cảm ứng, kết thúc thành công vòng đầu tư 5,5 triệu đô la được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư mạo hiểm từ Anh và Trung Quốc.
Một bằng sáng chế của Apple về công nghệ màn hình cảm ứng trích dẫn hơn 200 bài báo được bình duyệt khoa học, được xuất bản bởi một loạt hiệp hội học thuật, nhà xuất bản thương mại và báo chí đại học. Những tác giả này đã không làm việc một mình. Hầu hết đều là thành viên của một nhóm nghiên cứu. Nhiều nhóm đã được trao một khoản tài trợ cho nghiên cứu của họ. Mỗi nhóm đều có bài báo được đánh giá độc lập bởi ít nhất một học giả bên ngoài trong quá trình bình duyệt đồng đẳng, đóng vai trò cốt lõi của nghiên cứu học thuật. Hãy xem xét một bài báo về công nghệ màn hình cảm ứng được xuất bản gần đây bởi tạp chí Khoa học Thông tin của Elsevier. Sáu tác giả và hai phản biện “mù” được công nhận. Ngoại suy một cách tương đối những con số như vậy trong hơn hai trăm bài báo được trích dẫn bởi Apple đã trả lời cho hơn một ngàn nhà nghiên cứu, mỗi nhà nghiên cứu đều đóng góp quan trọng vào lĩnh vực công nghệ màn hình cảm ứng này.
Johnson đã khởi động bước đầu, và Apple phát huy những tiềm năng của nó, và chúng ta có công nghệ màn hình cảm ứng nhờ những cố gắng tổng hợp của rất nhiều nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới.
Pin lithium
iPhone sử dụng rất nhiều năng lượng, nhưng iPhone sẽ không thể có mặt ở mọi nơi nếu không có pin lithium có thể sạc lại.
Nhà khoa học người Anh Stanley Whittingham đã tạo ra mẫu pin lithium đầu tiên khi làm việc trong phòng thí nghiệm cho ExxonMobil vào những năm 1970, tiến hành nghiên cứu ban đầu mà ông đã thực hiện với các đồng nghiệp tại Đại học Stanford. Nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng lithium có thể được sử dụng để lưu trữ năng lượng, nhưng chính Whittingham và nhóm của ông đã tìm ra cách thực hiện điều này ở nhiệt độ phòng - mà không có nguy cơ phát nổ.
Sau đó, một giáo sư tại Đại học Oxford, John Goodenough, đã cải tiến tác phẩm gốc của Whittingham bằng cách sử dụng các oxit kim loại để nâng cao hiệu suất. Điều này đã thu hút sự quan tâm của Sony, công ty trở thành công ty đầu tiên thương mại hóa pin lithium vào những năm 1990 và tung ra điện thoại di động chạy bằng pin lithium ở Nhật Bản vào năm 1991. Tất cả những điều này đã tạo cơ sở cho việc sử dụng hàng loạt, với Apple khi họ mới bắt đầu ra mắt iPhone cho hơn một triệu người dùng vào năm 2007.
Câu chuyện của lithium không dừng lại ở đó. Là một trong những nền tảng của một thế giới không có nhiên liệu hóa thạch, hoạt động sản xuất của nó được bảo vệ một cách nhiệt tình. Vậy bạn nghĩ ai đã mua mảng kinh doanh pin của Sony vào năm 2016? Tại sao, một trong những nhà cung cấp hàng đầu của Apple, Murata Manufacturing. Trong khi đó, John Goodenough, hiện 95 tuổi, vẫn tiếp tục nghiên cứu đột phá của mình. Chỉ vài tháng trước, ông đã công bố một nghiên cứu mang tính bước ngoặt trên tạp chí của Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ. Trong số các tuyên bố của ông ấy, Goodenough đã tạo ra một loại pin lithium cho ô tô điện có thể được sử dụng gấp 23 lần so với mức trung bình hiện tại.
Internet và mạng toàn cầu www
Khi Andy Grignon, kỹ sư Apple, lần đầu tiên bổ sung chức năng Internet vào iPod năm 2004, Steve Jobs không mấy hào hứng. “Thật nhảm nhí. Tôi không muốn điều này. Tôi biết nó dùng được, tôi đã hiểu nó, tuyệt vời, cảm ơn, nhưng đây là một trải nghiệm tồi tệ”, Steve Jobs thốt lên.
Công việc miệt mài của nhiều nhóm Apple là áp dụng một “trải nghiệm tồi tệ” để tạo nên một kết quả mang tính cách mạng - tất cả kinh nghiệm và kiến thức của con người tập trung ngay tại đó, trong túi sau của bạn, chỉ cần một cái chạm của đầu ngón tay. Nhưng chúng ta phải cảm ơn ai về điều này?
Tim Berners-Lee được công nhận rộng rãi với việc phát minh ra www. Công việc của ông bắt đầu vào những năm 1980 khi ở Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu - được biết đến nhiều hơn với tên viết tắt tiếng Pháp CERN - được thành lập bởi 12 chính phủ châu Âu vào năm 1952 và tiếp tục được tài trợ bởi các quốc gia thành viên. Các ý tưởng của Berners-Lee bắt đầu như một giải pháp được đề xuất cho một vấn đề rất cụ thể tại CERN: cách tốt nhất để tạo điều kiện chia sẻ và cập nhật lượng lớn thông tin và dữ liệu được các nhà nghiên cứu CERN sử dụng. Đề xuất của ông dựa trên khái niệm hypertext (siêu văn bản), một thuật ngữ lần đầu tiên được đặt ra bởi nhà tiên phong lý thuyết Ted Nelson trong một bài báo năm 1965 do Hiệp hội Máy tính toán xuất bản. Thường được so sánh với phiên bản điện tử của hệ thống chú thích được các nhà nghiên cứu trên toàn thế giới sử dụng, hypertext làm nền tảng cho trang web, cho phép bạn chuyển từ nguồn thông tin này sang nguồn thông tin khác. Bất cứ nơi nào trên Internet. Dưới bất kỳ hình thức nào nó có thể được.
Nhưng ngay cả Berners-Lee cũng không được kể công một mình. Nếu World Wide Web là bản đồ, thì Internet là cánh đồng trên bản đồ mà chúng ta sẽ trải qua: một cơ sở hạ tầng mạng kết nối hàng triệu máy tính trên toàn cầu, cho phép mỗi máy giao tiếp với nhau, truyền tải một lượng lớn thông tin.
Để truy tìm nguồn gốc của Internet, chúng ta phải quay trở lại năm 1965. Trong khi Nelson đang tạo ra hypertext và Eric phát minh ra màn hình cảm ứng, thì hai nhà nghiên cứu tại MIT, Thomas Merrill và Lawrence Roberts, đã kết nối máy tính của họ với một máy khác cách xa 3.000 dặm ở California bằng một cách đơn giản qua đường dây điện thoại quay số tốc độ thấp. Ngay sau đó là Arpanet, không phải là một hệ thống AI lạc hậu, mà là Mạng lưới Cơ quan Dự án Nghiên cứu Nâng cao. Arpanet được thành lập và tài trợ bởi DARPA, Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến Mỹ, và ban đầu được hình thành như một phương tiện kết nối các máy tính của quân đội Mỹ qua các trung tâm khu vực khác nhau của họ.
Arpanet đã thực sự khai sinh ra Internet, trong một khoảnh khắc được mô tả dưới đây bởi Leonard Kleinrock. Đó là tháng 10-1969, ba tháng sau khi con người đi bộ trên mặt trăng và Kleinrock và các đồng nghiệp của ông vừa kết nối nhiều máy tính trên khắp nước Mỹ:
Chúng tôi gõ chữ L và hỏi qua điện thoại,
Bạn có thấy chữ L không?
Có, chúng tôi thấy L
Chúng tôi gõ chữ O và hỏi, Bạn có thấy chữ O không?
Có, chúng tôi thấy O.
Sau đó, chúng tôi nhập G và hệ thống gặp sự cố…
Quá trình sáng kiến thực sự không bao giờ diễn ra suôn sẻ. Nhưng những đột phá ban đầu này của thời đại không gian là cơ sở cho tất cả những gì tiếp theo. Mặc dù iPhone hiện đại hiện nay mạnh hơn 120 triệu lần so với máy tính đã đưa tàu Apollo 11 lên mặt trăng, nhưng sức mạnh thực sự của nó nằm ở khả năng tận dụng hàng tỉ trang web và terabytes tạo nên Internet.
Một phân tích ngắn gọn về ba đột phá nghiên cứu này cho thấy một trang web nghiên cứu gồm hơn 400.000 ấn phẩm kể từ khi Apple công bố bằng sáng chế điện thoại lần đầu tiên vào năm 1997. Thêm yếu tố hỗ trợ của các nhà nghiên cứu, nhà tài trợ, trường đại học và các công ty đằng sau họ, và mạng lưới đóng góp thật đáng khâm phục. Và chúng ta mới chỉ phớt nhẹ bề mặt. Còn vô số nghiên cứu đột phá khác nếu không thì iPhone sẽ không thể hình thành được; một số nổi tiếng, một số khác ít hơn. Cả hai chương trình GPS và Siri đều có nguồn gốc từ quân đội Mỹ, trong khi các thuật toán phức tạp cho phép số hóa ban đầu được hình thành để phát hiện thử nghiệm hạt nhân. Tất cả đều xuất phát từ những nghiên cứu cốt lõi của chúng.
IPhone là một công nghệ xác định thời đại. Các công nghệ xác định thời đại không phải đến từ sự xuất sắc hiếm có của một cá nhân hoặc tổ chức, mà là hàng hàng lớp lớp sáng kiến và thập kỷ này nghiên cứu qua thập kỷ khác, với hàng ngàn cá nhân và tổ chức đứng trên vai nhau và hướng tới tương lai xa hơn. Trong thời đại của chúng ta với những thách thức toàn cầu dường như không thể vượt qua, chúng ta không chỉ phải ghi nhớ điều này mà còn phải được truyền cảm hứng từ nó.
Chúng ta phải khuyến khích tính công khai và minh bạch ở trọng tâm của nghiên cứu, đảm bảo nó được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng và rõ ràng nhất có thể. Chúng ta phải nhớ rằng mọi sự chậm trễ và biến dạng đều quan trọng. Tính liêm chính và khả năng lặp lại được của nghiên cứu, phản biện minh bạch, quyền truy cập mở, tính đa dạng - đây không chỉ là những từ thông dụng. Đây là những bước đi phấn khởi nhằm cải tiến cơ sở hạ tầng của hệ sinh thái nghiên cứu toàn cầu luôn là hy vọng tốt nhất của chúng ta cho tương lai.