(KTSG) - Người dân sống ở vùng đồng bằng tiếp giáp sông Mêkông thường được xem là những người may mắn khi được thiên nhiên ưu đãi ngay từ khi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng biến đổi khí hậu (BĐKH) dường như đang khiến cả thế giới nhìn ra được một hình ảnh khác hơn về những người con ở lưu vực sông Mêkông.
Tuy vậy, nếu nhìn BĐKH như một kẻ thử thách hay người huấn luyện thì người ta tự hỏi đâu là những giá trị xã hội có thể tiếp tục tồn tại hoặc phải bị đào thải trong cộng đồng người dân sống ở lưu vực sông Mêkông.
- Biến đổi khí hậu ở sông Mêkông dưới góc nhìn của các doanh nghiệp
- Biến đổi khí hậu ở lưu vực sông Mêkông dưới lăng kính mới: Sông Mêkông trước mối quan hệ nhân- thiên và nhân - nhân
Nhìn thấy gì ở những đoàn người di dân?
Trong những ngày rất bình thường ở vùng đất Mêkông, nơi từng tràn đầy sức sống và hứa hẹn, những đoàn người di cư âm thầm rời bỏ quê hương, mang theo nỗi niềm và hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. BĐKH đã khắc sâu những vết thương trên mảnh đất này, và giờ đây, chính những vết thương ấy đang đẩy người dân vào hành trình không hẹn ngày về.
Nếu nhìn câu chuyện theo góc nhìn của Lý thuyết “Push-Pull” (tạm dịch: Lý thuyết Đẩy - Kéo) về di cư được phát triển bởi nhà địa lý học người Anh E.G. Ravenstein vào cuối thế kỷ 19, đã có nhiều yếu tố cùng “đẩy” và “kéo” những người con của Mêkông rời xa dòng sông này.
Những yếu tố “đẩy” như một cơn sóng ngầm, từ từ cuốn trôi mọi thứ mà con người từng gắn bó. Những cánh đồng lúa trĩu nặng phù sa giờ đây bị xâm nhập mặn, đất đai trở nên khô cằn. Những con sông, từng mang lại nguồn sống dồi dào, giờ cạn kiệt, không còn đủ sức nuôi dưỡng các làng ven sông.
Nhưng giữa những nỗi đau ấy, vẫn có những tia sáng “kéo” họ về phía trước, nơi có những cơ hội mới, những hứa hẹn về cuộc sống tốt đẹp hơn ở những vùng đất khác.
Sự tương tác giữa những yếu tố “đẩy” và “kéo” tạo nên một hành trình đầy thách thức và không kém phần bi tráng. Họ rời bỏ quê hương không chỉ vì những gì họ mất đi, mà còn vì những gì họ hy vọng có thể tìm lại ở nơi khác. Nhưng hành trình đó không hề dễ dàng.
Nếu nhìn rộng hơn, chúng ta có thể thấy cả sự đứt gãy của văn hóa và cộng đồng. Khi họ rời bỏ quê nhà, không chỉ là những ngôi nhà, những mảnh đất bị bỏ lại, mà còn là những lễ hội, phong tục, và truyền thống đã gắn bó với dòng sông, với cánh đồng suốt bao thế hệ. Họ mang theo những mảnh vỡ của ký ức, cố gắng giữ gìn bản sắc trong những điều kiện mới, nhưng cảm giác mất mát, trống rỗng luôn hiện diện. Văn hóa của họ, những giá trị từng tạo nên cộng đồng bền vững, đang bị thách thức và đe dọa bởi chính sự di cư này. Những đoàn người ấy, họ là tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ nhất về tương lai.
Vấn đề di cư ở lưu vực sông Mêkông, nếu nhìn một cách khoa học và thấu đáo, chúng ta sẽ thấy rằng BĐKH, với những tác động mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những yếu tố đẩy, trong khi các cơ hội kinh tế, điều kiện sống và an ninh ở những nơi khác chính là những yếu tố kéo người dân ra khỏi nơi chốn quen thuộc.
Khi lời nguyền tài nguyên bị gỡ bỏ?
Lời nguyền tài nguyên là thuật ngữ mô tả tình huống nghịch lý khi các cộng đồng sống tại các vùng đất có tài nguyên thiên nhiên dồi dào lại rơi vào tình trạng trì trệ về mặt kinh tế, thậm chí là suy thoái. Điều này được lý giải là do người dân nơi đó quá phụ thuộc vào các hoạt động tận dụng thế mạnh sẵn có mà không thể phát triển các ngành nghề khác để đảm bảo tính đa dạng và cân bằng được các rủi ro.
Khi nhắc đến các vùng đất ở lưu vực sông Mêkông, nhiều ý kiến cho rằng đây là nơi chịu ảnh hưởng của lời nguyền tài nguyên. Trong một thời gian dài, những cư dân ở ven hai bên sông chủ yếu kiếm sống nhờ vào hoạt động nông nghiệp do tận dụng lợi thế về nước ngọt dồi dào và đất đai màu mỡ. Bản thân ngành nông nghiệp của nơi này cũng phần nhiều được vận hành theo phương thức truyền thống thô sơ, hạn chế ứng dụng công nghệ do ít gặp các khó khăn trở ngại về điều kiện canh tác. Trải qua một thời gian dài, quá trình đô thị hóa ở khu vực này đã không diễn ra mạnh mẽ bằng những nơi khác dù luôn được mệnh danh là vựa lương thực của khu vực và thế giới.
Nhìn ở một góc độ khác, người ta tin rằng BĐKH đã thực sự gỡ bỏ lời nguyền tài nguyên, đem lại đủ động lực để các hoạt động kinh tế - xã hội không còn quá lệ thuộc vào những lợi thế ưu đãi và đủ sức bật để có thể vươn lên bằng nhiều giải pháp sáng tạo hơn. Hai kịch bản thay đổi cho lưu vực sông Mêkông đã được đưa ra, thứ nhất đó là khả năng dịch chuyển sang các ngành kinh tế khác, ít lệ thuộc vào tài nguyên nhưng đòi hỏi phải có các nguồn lực khác để phát triển, thứ hai là vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động kinh tế truyền thống nhưng phải thay đổi cách thức vận hành. Một kịch bản thứ ba được đưa ra và có khả năng xảy ra cao hơn đó là việc diễn ra đồng thời cả hai xu hướng trong hai kịch bản trên.
Dù là ở kịch bản nào thì việc thay đổi các tập quán, thói quen sống và làm việc của người dân ở tiểu vùng sông Mêkông là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Trước đây, sự lệ thuộc vào tài nguyên sẵn có khiến các hoạt động nông nghiệp diễn ra tự phát và các kiến thức tích lũy theo kinh nghiệm là chủ yếu. Ngày nay, việc học tập để chủ động xác lập cuộc chơi mới trước bối cảnh môi trường thay đổi đòi hỏi các khu vực này phải phát triển hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục sau phổ thông.
Nghiên cứu là một trong những lĩnh vực được tin tưởng sẽ gánh vác trách nhiệm giúp tiểu vùng sông Mêkông duy trì hoạt động và tiếp tục phát triển. Rất nhiều quốc gia đã bỏ ra nguồn ngân sách lớn cho các chương trình nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, phương pháp canh tác, máy móc thiết bị, khả năng dự báo, đo lường và cách thức phản ứng trước các hiện tượng thời tiết cực đoan... Nhiều nguồn viện trợ, đầu tư cũng chảy về khu vực này để tìm kiếm cơ hội thay đổi những khó khăn hoặc tham gia định hình một thị trường mới. Một môi trường sống yên bình nhưng có phần an phận đang dần bị phai màu, nhưng thay vào đó là một không gian sống năng động và có phần tham vọng hơn, khi mà con người Mêkông khát khao vượt qua những thách thức từ BĐKH.
Việc dịch chuyển sang các hoạt động kinh tế mới đòi hỏi khả năng kết nối với các vùng đất khác, các ngành nghề khác và các đối tác cũng như thị trường. Hạ tầng giao thông và dịch vụ đi kèm với công nghệ đang được chú trọng xây dựng giúp tiểu vùng sông Mêkông tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng toàn cầu. Việc kết nối này đang mở ra nhiều cơ hội cho nhân lực trẻ của lưu vực sông Mêkông có thể đi đến nhiều nơi trên thế giới, học tập và tìm kiếm những phương pháp đa dạng để phát triển vùng.
Như vậy, việc gỡ bỏ lời nguyền tài nguyên đang giúp thay đổi không gian sống của tiểu vùng sông Mêkông theo hướng mở rộng hơn, tăng tính kết nối và năng lực đón nhận các nguồn lực từ nhiều nơi thông qua các kênh đa dạng nhằm thúc đẩy quá trình học tập, nghiên cứu, mở rộng mối quan hệ.
Văn hóa uốn mình thích ứng với biến đổi khí hậu
Dưới những cánh rừng ngập mặn rì rào bên dòng Mêkông, nơi từng là chốn an lành của bao thế hệ, văn hóa của người dân nơi đây đang âm thầm uốn mình, như một nhành tre trước cơn bão BĐKH.
Nông nghiệp, từng là linh hồn của lưu vực này, giờ đây phải thích nghi với sự khắc nghiệt của tự nhiên. Người dân bắt đầu tìm đến những giống cây chịu mặn, thử nghiệm những mô hình canh tác mới, như lúa xen tôm. Sự thay đổi này không chỉ đơn thuần là về kỹ thuật, mà còn là một câu chuyện về sức mạnh của con người, khi họ tìm cách hòa nhịp với thiên nhiên, biến những thử thách thành cơ hội để tồn tại và phát triển. Những phương thức mới chắc chắn sẽ dần trở thành truyền thống, được truyền lại từ đời này sang đời khác như một phần của di sản văn hóa, thể hiện sự kiên cường và sáng tạo của con người.
Văn hóa ẩm thực, từng là hơi thở của mỗi bữa ăn gia đình, cũng thay đổi theo từng nhịp chảy của sông Mêkông. Những món ăn vốn gắn liền với đất phù sa và dòng nước ngọt giờ đây đã mang hương vị của nước lợ, của những cánh đồng chịu mặn. Những món ăn ấy không chỉ đơn thuần là thực phẩm, mà còn là minh chứng cho sự hòa hợp giữa con người và môi trường, là sợi dây kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa những giá trị truyền thống và tương lai đầy biến động.
Trong những ngôi làng ven sông, các nghi lễ truyền thống cũng bắt đầu chuyển mình. Những lễ hội cầu mưa, lễ cúng đất đai, vốn đã tồn tại hàng thế kỷ, giờ đây phải đối mặt với những thực tế mới của thiên nhiên. Người dân có thể sẽ thêm vào những nghi lễ mới, cầu an trước những cơn bão ngày càng dữ dội, cầu sự bình yên trước mối đe dọa của nước lũ và hạn hán. Những thay đổi này không chỉ là sự điều chỉnh bề ngoài, mà là sự phản ánh sâu sắc về mối liên kết giữa con người và đất trời, nơi mà tín ngưỡng không phải là cố định, mà là một dòng chảy, luôn sẵn sàng thay đổi để bảo vệ cộng đồng.
BĐKH cũng mở ra một chương mới trong câu chuyện về văn hóa du lịch tại Mêkông. Những người dân bắt đầu nhận ra rằng, thiên nhiên không chỉ là nguồn sống mà còn là kho báu để gìn giữ và chia sẻ. Các tour du lịch tham quan rừng ngập mặn, bảo tồn động vật hoang dã và làng du lịch cộng đồng bắt đầu nở rộ. Du khách đến đây không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn để cảm nhận nhịp sống bền vững của người dân.
Giáo dục và truyền thống văn hóa cũng đang thay đổi, khi những câu chuyện về sự khắc nghiệt của thiên nhiên và bài học về sự thích nghi trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống. Thế hệ trẻ được dạy rằng, bảo vệ môi trường không chỉ là nhiệm vụ, mà còn là cách để giữ gìn bản sắc, là cách để bảo vệ chính mình.
Các giá trị xã hội soi mình trước biến đổi khí hậu
BĐKH xảy ra như một phép thử cho các giá trị xã hội có cơ hội được nhìn nhận lại một lần nữa vai trò và tầm quan trọng của chúng đối với cộng đồng và người dân nơi lưu vực sông Mêkông.
Nhờ những thách thức khắc nghiệt của BĐKH, người ta chợt nhớ lại một bản chất của những con người sống gắn bó với sông Mêkông đã từng bị lãng quên trong một thời gian dài, đó là tinh thần đổi mới sáng tạo và khả năng thích ứng với thiên nhiên để cùng nhau phát triển. Từ lâu đời trước kia, tổ tiên của những người dân sống ở tiểu vùng sông Mêkông đã từng xây những ngôi nhà sàn với các trụ cột nâng không gian sống của họ lên cao, hoặc những ngôi làng được hình thành từ những nhà bè trôi nổi trên sông để đón chào dòng nước tràn vào thôn làng trong những mùa nước nổi. Văn hóa mùa nước nổi là minh chứng cho sự đồng hành giữa con người với thiên nhiên khi không có một sự ngăn chặn nào đối với nước lũ tràn về. Người dân có thể ngồi ở những ngôi nhà sàn, nhà bè để câu cá và đàn hát giữa trời đất mênh mông.
Ngày hôm nay, nếu như dòng nước không còn tràn vào mạnh mẽ như xưa hoặc hương vị của con sông không còn ngọt ngào như trước, người ta sẵn sàng chấp nhận điều đó như một sự lựa chọn của mẹ thiên nhiên. Nông dân ra đồng sẽ cầm theo máy đo độ mặn hoặc chiếc điện thoại di động của họ liên tục truy cập vào các nền tảng dữ liệu cung cấp thông tin và dự báo các điều kiện canh tác. Những người phụ nữ đi vào những nhà máy trong dòng chảy công nghiệp hóa để tạo nên những sản phẩm xuất khẩu đi khắp thế giới. Những người trẻ có thể xách ba lô lên để đi đến nhiều nơi trên thế giới, quan sát và học tập những bài học mới về thiên nhiên, về cuộc sống. Ở đâu trên Trái đất cũng là nhà, nơi họ có thể bắt gặp những dòng nước chảy róc rách, mang hương vị của những cánh đồng lúa chịu mặn mà sông mẹ Mêkông đã ý nhị gửi đến.
(*) Giám đốc chuyên môn - Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tâm Việt - Tâm Việt Education
(**) Giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế - Đại học UEF