Ai phải chịu trách nhiệm?
![]() |
Mặt nước sông Thị Vải. |
(TBKTSG) - Vedan không thể chối cãi về hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật môi trường, do đã bị bắt quả tang. Chắc chắn họ sẽ bị chế tài do hành vi ấy. Song, phạt họ vì đã xả chất thải công nghiệp chưa được xử lý xuống sông Thị Vải là một chuyện; còn buộc họ chịu trách nhiệm về cái chết của con sông đó, hay về những tổn hại đối với sức khỏe, tài sản của người dân sống lân cận, lại là chuyện khác.
Mọi người không còn lạ với cảnh môi trường sống xung quanh một khu công nghiệp, một nhà máy bị xuống cấp sau một thời gian khu công nghiệp, nhà máy đi vào hoạt động. Vụ kênh Ba Bò ở TPHCM, được người dân và các phương tiện truyền thông liên tục nhắc đến mấy tháng nay, là ví dụ rất điển hình.
Mối liên hệ nhân quả giữa hoạt động của nhà máy và sự xuống cấp của môi trường được dễ dàng cảm nhận. Tuy nhiên, để có thể quy trách nhiệm vật chất cho người này, người nọ về mặt pháp lý, thì sự cảm nhận chưa đủ: cần thiết lập bằng chứng khách quan về mối liên hệ đó.
Rõ hơn, phải tiến hành điều tra để xác lập căn cứ khoa học của việc quy kết hành vi xả chất thải từ các nhà máy, nói chung, hành vi được thực hiện trong quá trình khai thác doanh nghiệp, là nguyên nhân chính của tình trạng môi trường bị hủy hoại.
Trong hầu hết trường hợp, đây là một công tác kỹ thuật rất phức tạp và tốn kém. Trong khuôn khổ xác lập trách nhiệm dân sự, người bị thiệt hại mà là tư nhân phải tập họp lại và chung góp tiền của, thậm chí quyên góp thêm ngoài xã hội, thì mới mong trang trải được chi phí điều tra, giám định. Trước một yêu cầu chứng minh quá ngặt nghèo, người dân bị thiệt hại do ô nhiễm môi trường thường nản chí và bỏ cuộc.
Không phải đương đầu với nguy cơ bị kiện tụng, doanh nghiệp yên tâm và tiếp tục xả chất thải theo cách đã quen. Lỡ có bị phát hiện, như trường hợp của Vedan hoặc của Hyundai Vinashin cách nay ít lâu, thì người vi phạm có thể bị chế tài hành chính, thậm chí bị chế tài hình sự. Đây thực ra chỉ là các biện pháp trấn áp của quyền lực công “đánh” vào hành vi ứng xử của chủ thể. Trong khi đó, môi trường sống tiếp tục bị tàn phá, như là hậu quả cảm nhận được nhưng không chứng minh được của hành vi ấy; người dân phải chấp nhận thiệt hại, cam chịu, dù không bao giờ thôi bức xúc.
Có một điều chắc chắn là nếu môi trường tự nhiên xuống cấp, thì người phải nhận lấy trách nhiệm ứng phó, cả về chính trị, đạo đức và pháp lý đối với xã hội, với nhân dân, chính là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Đảm nhận một chức năng chuyên biệt của nhà chức trách, cơ quan này được Nhà nước, tức là nhân dân, trả lương để “gác cổng” trong lĩnh vực quản lý môi trường; nó giữ vai trò chính trong việc bảo đảm thực thi cam kết xã hội của nhà chức trách về việc bảo vệ khung cảnh sống của công dân.
Bởi vậy, một khi nhận được thông tin đáng tin cậy về những biến đổi theo chiều hướng xấu của môi trường tự nhiên trên phần lãnh thổ thuộc trách nhiệm của mình, thì cơ quan quản lý môi trường có nghĩa vụ phải vào cuộc. Thanh tra môi trường, được luật chính thức ghi nhận là một phần nội dung chức năng quản lý nhà nước về môi trường, là công tác mà cơ quan quản lý môi trường phải thực hiện trong trường hợp này, nhằm thể hiện vai trò “gác cổng” mà xã hội giao cho mình.
Khi tiến hành thanh tra môi trường theo đơn tố giác của người dân, của công luận, vấn đề đối với nhà chức trách không phải có đúng người bị tố giác là tác giả của hành vi được cho là nguyên nhân của hiện tượng ô nhiễm, suy thoái môi trường, mà là tại sao lại có hiện tượng đó. Điều tra theo tất cả các hướng có thể, cơ quan quản lý có điều kiện cho ra kết luận chính xác và thỏa đáng nhất.
Giả sử từ kết quả thanh tra mà xác định được người phải chịu trách nhiệm về tình trạng môi trường bị hủy hoại, thì cơ quan quản lý nhà nước phải tiến hành chế tài đối với người đó và phải làm thế nào để hành vi tương tự không tái diễn trong tương lai. Mặt khác, với tư cách là người đại diện cho lợi ích công cộng, cơ quan quản lý phải yêu cầu người có hành vi vi phạm khắc phục hậu quả thiệt hại gây ra đối với tất cả những gì gọi là giá trị vật chất, tinh thần chung của toàn xã hội.
Các tư nhân bị thiệt hại, về phần mình, có thể dựa vào kết quả thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước mà chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra, nhằm yêu cầu bồi thường cho riêng mình. Điều đó cũng có nghĩa rằng cơ quan quản lý môi trường có nghĩa vụ công khai với toàn xã hội kết quả thanh tra, để tất cả nạn nhân có thể sử dụng trong quá trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp riêng tư trước tòa án.
Nếu để mặc cho môi trường xuống cấp mà không có hành động ứng phó cụ thể hoặc có tiến hành điều tra nhưng không tìm được nguyên nhân và, cuối cùng, bó tay bất lực trước cảnh môi trường chết dần mòn, cơ quan quản lý môi trường, nhà chức trách nói chung, bị coi là đã không làm tròn nhiệm vụ người gác cổng. Một cách hợp lý, chính họ khi đó phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần đối với xã hội, với công dân.
TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN