Thứ sáu, 2/05/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Bài 3 – Phần 1: Chọn mặt gởi vàng

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Bài 3 - Phần 1: Chọn mặt gởi vàng

(TBKTSG Online) - Sau khi đã thấm câu “Thời giờ là tiền bạc” hiểu theo nghĩa tài chính, chúng ta thử tìm hiểu vì sao ông bà ta thích nói: “Chọn mặt gởi vàng”. Nếu chúng ta biết rằng tiền bạc có giá trị khác nhau tùy theo thời gian, chủ yếu vì lạm phát, yếu tố rủi ro và cơ hội sử dụng ngay đồng tiền trong tay, thước đo của các yếu tố này chính là lãi suất.

Trong bài trước, giá trị của đồng tiền thay đổi do số năm đầu tư và lãi suất hưởng được. Vì vậy, chọn mặt gởi vàng chính là tìm nơi nào có lãi suất cao nhất, cân nhắc rủi ro để đầu tư tiền và xoa tay ngồi chờ hiệu quả diệu kỳ của lãi suất kép chúng ta đã thấy.

Gởi tiền vào ngân hàng theo dạng không kỳ hạn là chắc ăn nhất vì muốn rút ra bao giờ thì rút, cho nên lãi suất cũng thấp nhất. Khá hơn có cách gởi theo kỳ hạn, càng lâu, lãi càng cao. Thế nhưng tất cả đều là gởi tiền cho người ta giữ giùm, làm sao trông chờ lãi suất cao được. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét những dạng đầu tư khác, có mức lãi cao hơn – mua trái phiếu và cổ phiếu.

Trái phiếu là cho vay nợ

Khi nói đến thị trường chứng khoán, chúng ta thường nghĩ ngay đến cổ phiếu công ty. Thật ra, trên hoạt động mua bán chứng khoán hàng ngày, số lượng giao dịch trái phiếu lúc nào cũng lớn hơn cổ phiếu. Ở Mỹ thị trường trái phiếu gấp bốn lần thị trường cổ phiếu. Thông thường các công ty lớn đều có hoạt động đầu tư tài chính. Ví dụ, một công ty đầu tháng nhận vào 100 tỷ đồng, chưa cần phải chi ngay, gởi ngân hàng thì lãi suất quá thấp, mua cổ phiếu thì rủi ro quá lớn vì thế công ty này sẽ mua trái phiếu cho chắc ăn. Đến cuối tháng khi cần tiền mặt để trả lương chẳng hạn, công ty này sẽ bán lượng trái phiếu mới mua và nhận một khoản lãi không nhỏ.

Có nhiều loại trái phiếu như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty... Dù có tên là gì, trái phiếu vẫn là tờ giấy nhận nợ của nơi phát hành với sự cam kết sẽ trả lại cho người mua số tiền ghi trên trái phiếu (mệnh giá – thường là 100.000 đồng), vào thời điểm đáo hạn và khoản tiền lãi trả định kỳ (thường là nửa năm một lần). Lãi suất của các loại trái phiếu khác nhau tùy thuộc vào độ rủi ro của nó. Trái phiếu Chính phủ được xem là an toàn nhất nên lãi suất cũng thấp nhất, trái phiếu của những công ty mới ra đời có lãi suất cao hơn để thu hút người mua chịu chấp nhận độ rủi ro cao hơn.

Mua trái phiếu tức là chấp nhận chôn tiền vào một chỗ trong thời gian khá lâu (dưới năm năm vẫn là ngắn hạn, từ 5 đến 12 là trung hạn và trên 12 năm mới được xem là dài hạn). Có lẽ không ai chịu để tiền nằm chết dí như thế nên mới có thị trường mua đi bán lại trái phiếu. Và chính ở thị trường này mới xuất hiện hiện tượng: “Khi lãi suất trên thị trường giảm, giá trái phiếu lại tăng; ngược lại, khi lãi suất tăng, giá trái phiếu thường giảm”.

Giải thích chuyện này cũng dễ: Ví dụ bạn mua một trái phiếu kỳ hạn 5 năm giá 100.000 đồng, lãi suất cố định 9% năm. Tức là hàng năm bạn sẽ nhận 9.000 đồng tiền lãi, suốt trong năm năm và cuối cùng nhận lại 100.000 đồng tiền vốn của mình.

Nay giả thử lãi suất giảm, người ta phát hành trái phiếu mới, cũng có mệnh giá 100.000, lãi suất chỉ còn 5% năm. Tức là người sở hữu loại trái phiếu mới chỉ nhận 5.000 tiền lãi mỗi năm trong khi bạn vẫn nhận đều 9.000 năm.

Bây giờ nếu có người muốn mua lại trái phiếu của bạn, ắt bạn sẽ không chịu bán với giá 100.000 nữa mà phải đòi cao hơn vì loại trái phiếu của bạn nắm có lãi suất cao hơn.

Như vậy người mua trái phiếu không chỉ trông chờ vào lãi suất ghi trên trái phiếu, họ còn chờ vào việc giá trái phiếu thay đổi – lên thì họ hưởng, xuống thì chịu rủi ro. Lợi nhuận loại này gọi là lợi suất hiện hành (current yield). Khi mới phát hành một loại trái phiếu có lãi suất 6% sẽ có lợi nhuận là bằng lãi suất, tức là 6%. Ví dụ nếu giá trái phiếu có mệnh giá 100.000 chỉ còn 90.000, lợi nhuận sẽ là 6,67% (100.000 x 0,06/90.000).

Người ta thường tính lợi suất đáo hạn (yield to maturity) để so sánh các loại trái phiếu với nhau. Lợi suất đáo hạn gồm tất cả tiền lãi người nắm trái phiếu có được cho đến khi đáo hạn cộng lợi tức nhờ giá mua thấp hơn mệnh giá hay trừ phần lỗ nếu giá mua cao hơn mệnh giá.

Định giá trái phiếu

Như vậy, một trong những kỹ năng người mua bán trái phiếu cần có là biết cách định giá trái phiếu. Giả thử chúng ta muốn biết giá thị trường hiện nay của một trái phiếu có mệnh giá 100.000 đồng, lãi suất hàng năm 10%, còn 9 năm nữa thì đáo hạn là bao nhiêu.

Nếu lãi suất hiện giờ của loại trái phiếu này là 12%, chúng ta sẽ tính giá trị hiện tại của dòng tiền 10.000 đồng nhận hàng năm (tức là lãi suất hàng năm) trong 9 năm chiết khấu cho 12% là bao nhiêu xong rồi cộng với giá trị hiện tại của 100.000 đồng (mệnh giá) sẽ nhận trong 9 năm nữa, cũng chiết khấu cho 12%.

Nếu gọi V là giá thị trường của trái phiếu nói trên, công thức tính có thể ghi lại như sau:

V = 10.000 x PVIFA12%,9  + 100.000 x PVIF12%,9

V = 53.280 + 36.100 = 89.380 đồng.

(Ghi chú: nếu tính theo bảng phụ lục kết quả sẽ hơi khác nếu tính bằng máy tính vì bảng phụ lục làm tròn số từ số lẻ thứ ba. Giá tính theo máy tính sẽ là 89.344 đồng).

Bây giờ, giả thử lãi suất của một trái phiếu tương tự chỉ có 8% thay vì 12% như chúng ta vừa tính, giá trái phiếu này sẽ là bao nhiêu?

V = 10.000 x PVIFA8%,9  + 100.000 x PVIF8%,9

V = 62.470 + 50.000 = 112.470 đồng

Trong trường hợp lãi suất trả mỗi năm hai lần, cần điều chỉnh công thức một chút. Lấy ví dụ một trái phiếu công ty X có lãi suất 10%, cứ sáu tháng trả lãi một lần, còn 12 năm nữa sẽ đáo hạn. Giá của nó sẽ được tính như sau, nếu lãi suất kỳ vọng của một trái phiếu tương tự hiện nay là 14%:

V = 5.000 X PVIFA7%,24  + 100.000 x PVIF7%, 24

V = 57.345 + 19.700 = 77.045

Tức là chúng ta lấy tiền lãi nhận từ kỳ, nhưng lãi suất kỳ vọng chia đôi và thời gian đến lúc đáo hạn cũng phải nhân đôi lên.

Thông thường chúng ta đâu cần biết giá của trái phiếu vì thị trường mua bán nó nhanh lắm, giá cả lên xuống từng ngày theo tình hình chung của nơi phát hành trái phiếu và sức khỏe nền kinh tế. Ngược lại, chúng ta có thể dựa vào giá thị trường để so sánh xem lãi suất của trái phiếu trên danh nghĩa hơn hay kém so với lãi suất kỳ vọng mà nhà đầu tư đặt vào trái phiếu ấy thông qua cách định giá của thị trường.

Với công thức trên, một khi đã biết V, biết mức lãi nhận định kỳ, biết mệnh giá, chúng ta có thể suy ra mức lãi suất kỳ vọng này. Nếu có phần mềm giúp đỡ thì tính toán sẽ rất nhanh và chính xác, tính bằng máy tính bỏ túi, chúng ta phải dùng phương pháp thử – sai – thử tiếp (tức là dùng nhiều mức lãi khác nhau để tính giá), cho đến lúc nào đúng với giá thị trường đang đưa ra thì đó chính là lãi suất kỳ vọng. Những tay môi giới trái phiếu chuyên nghiệp đều có bảng tính sẵn để tiện tra cứu.

CẨM NHUNG  

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới