(KTSG) - Suốt nhiều năm qua, cải cách thủ tục hành chính được xem là nỗ lực then chốt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, khi mục tiêu cắt giảm tiếp tục được đặt ra với những con số cụ thể, không ít cơ quan quản lý lúng túng vì không biết “cắt gì nữa”. Liệu chúng ta đã chạm đến giới hạn kỹ thuật của cải cách, hay vẫn còn những “lối đi” để bảo đảm thực chất, hiệu quả và bền vững hơn?
- Cải cách thị trường điện Việt Nam 2.0 nhìn từ sự tương hỗ giữa các chủ trương chính sách lớn
- Phát triển kinh tế tư nhân, quan trọng nhất là cải cách thủ tục thuế

“Gần 10 năm trở lại đây, Chính phủ có những đợt rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh; những hoạt động này đã phát huy khá tốt, môi trường đầu tư kinh doanh vì thế thuận lợi hơn và cũng khiến các nhà làm chính sách thay đổi tư duy soạn thảo. Xét một cách công bằng, hệ thống pháp luật kinh doanh của nước ta có nhiều tín hiệu tích cực hơn trước”, Báo cáo dòng chảy pháp luật kinh doanh năm 2024 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định.
Ở thời điểm hiện tại, cải cách thủ tục hành chính vẫn được xem là một trong những nỗ lực then chốt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Trong năm nay, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành phải bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện đầu tư kinh doanh, giảm ít nhất 30% thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, 30% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.
Trong một cuộc họp gần đây, đại diện cơ quan pháp chế của một bộ nói rằng, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao không hề đơn giản, bởi “những gì có thể cắt thì đã cắt rồi”. Điều này phần nào cho thấy, thực trạng cải cách đang đứng trước ranh giới của hiệu quả thực chất và cắt giảm cơ học. Sau nhiều năm triển khai các chương trình đơn giản hóa, các thủ tục, điều kiện dễ cắt, dễ thống kê đã được xử lý. Phần còn lại là những thủ tục, điều kiện mang tính chuyên môn cao, liên quan đến nhiều luật, bộ, ngành, hoặc có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý nhà nước, nên không dễ động chạm.
Khi ranh giới kỹ thuật của cải cách đã dần lộ diện, điều cần thiết không phải là tìm thêm “những gì có thể cắt”, mà là nhìn lại cách chúng ta tạo ra quy định, để từ đó vừa gỡ những rào cản hiện hữu, vừa ngăn chặn những “gánh nặng mới” có thể nảy sinh.
Tuy nhiên, liệu có thật chúng ta đã “cắt hết” những gì có thể cắt? Hay là chúng ta đang thiếu những phương pháp tiếp cận mới, mang tính hệ thống và sâu hơn, để phát hiện ra những nút thắt ẩn sau các thủ tục, điều kiện kinh doanh tưởng chừng không thể cắt giảm?
Cũng trong Báo cáo dòng chảy pháp luật kinh doanh năm 2024, nhóm nghiên cứu của VCCI chỉ ra rằng, sau mỗi đợt rà soát, cải cách, câu hỏi về tính thực chất luôn được đặt ra. Nguyên nhân không chỉ bởi những con số mà các bộ đưa ra đôi khi chưa được kiểm chứng độc lập, mà còn vì một phần lớn đề xuất cắt giảm mang tính hình thức, không có đánh giá tác động cụ thể đến doanh nghiệp. Những đề xuất nhỏ nhặt kiểu cắt bỏ trường thông tin trong tài liệu, bỏ một số tài liệu mà cơ quan nhà nước có thể tra cứu thông tin, giảm số ngày giải quyết thủ tục, giảm số lượng hồ sơ…; thậm chí một số phương án sửa đổi các quy định đã không còn hiệu lực… vẫn được tính vào “thành quả” cắt giảm, đơn giản hóa. Trong khi đó, việc bỏ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh, bỏ hoàn toàn các thủ tục hành chính… mặc dù có được đề xuất nhưng rất ít. Điều này dẫn đến nghịch lý: số lượng thủ tục, điều kiện kinh doanh được báo cáo là giảm, nhưng doanh nghiệp vẫn kêu khó, kêu phiền.
Đáng chú ý, việc kiểm soát các quy định ban hành mới hiện nay chưa thực sự được chú trọng. Hệ quả là trong khi một số thủ tục được cắt bỏ thì lại xuất hiện thêm nhiều quy định mới chồng chất. Xét trong tổng thể, số quy định tạo gánh nặng cho doanh nghiệp không những không giảm mà có thể còn tăng.
Cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh là việc khó, bởi nó chạm đến lợi ích, đến quyền lực và cả tập quán làm việc đã hình thành nhiều năm. Nhưng nếu chỉ chạy theo con số và tỷ lệ, thì hiệu quả cuối cùng sẽ không nằm ở năng suất hay chi phí của doanh nghiệp, mà chỉ nằm ở các báo cáo tổng kết. Với cộng đồng doanh nghiệp, con số 20% hay 30% không quan trọng bằng việc liệu có cắt đúng những quy định phiền hà nhất, gây tốn kém thời gian, chi phí nhất hay không. Một quy định dù chỉ là 1/1.000 trong tổng số thủ tục nhưng nếu là rào cản lớn nhất với doanh nghiệp thì sẽ mang lại tác động tích cực vượt xa hàng chục phần trăm thủ tục cắt giảm.
Cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh là việc khó, bởi nó chạm đến lợi ích, đến quyền lực và cả tập quán làm việc đã hình thành nhiều năm.
Muốn đánh giá chính xác hiệu quả cải cách, không thể chỉ dừng ở những con số tổng hợp. Phải làm rõ bao nhiêu quy định kinh doanh đã được bãi bỏ, bao nhiêu được đơn giản hóa, các hình thức đơn giản hóa là gì và mức độ ảnh hưởng thực sự của chúng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ra sao. Theo Báo cáo tình hình cải cách thủ tục hành chính năm 2024 của Văn phòng Chính phủ, từ năm 2021 đến nay, đã có 3.195 quy định kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa trong 281 văn bản quy phạm pháp luật - tương đương 20,2% trên tổng số 15.763 quy định. Tuy vậy, cộng đồng doanh nghiệp vẫn mong đợi việc phân loại chi tiết và đánh giá thực chất hơn, để từ đó nhận diện rõ đâu là những cải cách thực sự “động đến” rào cản của doanh nghiệp, chứ không chỉ gói gọn trong hình thức, số liệu.
Cải cách không chỉ là hành trình “dọn dẹp quá khứ”, mà còn phải là cuộc chiến liên tục để ngăn ngừa sự tái sinh của các rào cản. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng các quy định mới, không để xảy ra tình trạng “tay trái cắt giảm, đơn giản hóa; tay phải đặt thêm thủ tục, điều kiện kinh doanh”. Hiện nay, luật ban hành chủ yếu ở dạng khung và Quốc hội trao quyền cho Chính phủ ban hành các quy định chi tiết - dẫn đến rủi ro cài cắm lợi ích, tạo ra “giấy phép con, giấy phép cháu” trong khâu soạn thảo văn bản hướng dẫn. Hơn nữa, “cánh cửa” tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản dưới luật và được lắng nghe hẹp hơn rất nhiều so với cơ hội tham gia trong tiến trình làm luật. Trong bối cảnh đó, nếu thiếu công cụ kiểm soát quyền lực quy định, thì dù có cố gắng bao nhiêu trong việc cắt giảm, thành quả vẫn có thể bị triệt tiêu chỉ bởi một vài điều khoản mới được “lặng lẽ” chèn vào luật, nghị định.
Cải cách thủ tục không phải là phép cộng đơn thuần của những con số cắt giảm. Đó phải là một quá trình đổi mới tư duy, phương pháp và cả cơ chế giám sát thực thi. Khi ranh giới kỹ thuật của cải cách đã dần lộ diện, điều cần thiết không phải là tìm thêm “những gì có thể cắt”, mà là nhìn lại cách chúng ta tạo ra quy định, để từ đó vừa gỡ những rào cản hiện hữu, vừa ngăn chặn những “gánh nặng mới” có thể nảy sinh. Chỉ khi đó, cải cách mới thật sự chạm đến đích là sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp và sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Đúng như vậy. Cắt giảm, chỉ là động tác nhiều phần chắp vá, lủng củng, thiếu nhất quán đồng bộ. Viết lại, một phần hoặc toàn bộ cơ chế chính sách, nếu cần thiết phải làm như vậy. Điều này không thể để cho các cơ quan chủ quản, địa phương tự đề xuất và triển khai. Tất cả phải do một Ủy ban cải cách thể chế, độc lập và tập trung, điều phối chỉ đạo nghiêm túc trong toàn hệ thống chính trị.