Thứ năm, 13/03/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Cải thiện dòng vốn đầu tư để ĐBSCL ‘thịnh vượng’ hơn

Trung Chánh

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – Vốn đầu tư thiếu cũng như hiệu quả sử dụng chưa cao được cho là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển chưa tương xứng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Do đó, việc huy động nguồn vốn đầu tư được xác định là lời giải cho vùng này...

Nội dung nêu trên được đề cập trong báo cáo kinh tế thường niên 2024 do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Đồng bằng sông Cửu Long (VCCI ĐBSCL) phối hợp cùng Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, Đại học Fulbright Việt Nam thực hiện, dự kiến công bố cuối tháng 3-2025.

Xoay quanh vấn đề đặt ra, KTSG Online có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc VCCI ĐBSCL để hiểu rõ nguyên nhân và đưa ra gợi ý cho phát triển ĐBSCL một cách bền vững, xứng tầm những giá trị mà khu vực này mang lại.

ĐBSCL là vùng nông nghiệp chiến lược, giúp ổn định xã hội. Ảnh: Trung Chánh

Vùng nông nghiệp chiến lược, giúp ổn định xã hội

KTSG Online: Vốn đầu tư được xem là lời giải cho sự phát triển của ĐBSCL. Ông đánh giá ra sao về vai trò và tương quan nguồn lực đầu tư đến sự phát triển của vùng?

- Ông Nguyễn Phương Lam: ĐBSCL là một trong sáu vùng kinh tế của cả nước, nông nghiệp đóng vai trò chiến lược, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn cung ứng cho thị trường quốc tế. Nếu ĐBSCL bị ảnh hưởng có thể dẫn đến bất ổn về xã hội, trong khi các vùng chiến lược về công nghiệp hay dịch vụ khi bị tác động bởi kinh tế toàn cầu, thì chỉ giảm về tăng trưởng, không gây bất ổn xã hội.

Ví dụ, một vụ mất mùa, giá cả có thể ảnh hưởng đến xã hội, bởi Việt Nam là quốc gia có 80-90% người dân thuộc mức thu nhập trung bình thấp nên bất kỳ biến biến động nào về lương thực cũng ảnh hưởng đến xã hội.

Ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh ĐBSCL. Ảnh: Trung Chánh

ĐBSCL đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định xã hội, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế, lạm phát hay như đại dịch dịch Covid-19 vừa qua. Tuy nhiên, vài thập niên gần đây, biến đổi khí hậu có ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng ĐBSCL.

Từ vấn đề nêu trên, có nghĩa từ hạ tầng đến cuộc sống người dân, đòi hỏi phải đầu tư mạnh mẽ hơn để không ảnh hưởng đến người dân, nhất là khi ĐBSCL được “ban tặng” tài nguyên cho phát triển nông nghiệp một lĩnh vực quan trọng trong tiến trình phát triển.

Dĩ nhiên, trong một thập niên qua, ĐBSCL được Chính phủ đầu tư nhiều, giúp tăng đáng kể năng suất lao động ở khu vực nông nghiệp, tăng trưởng năng lực sản xuất nông sản chế biến xuất khẩu, đóng góp rất lớn cho quốc gia. Nếu tiếp tục đầu tư, giá trị còn tăng hơn nữa, tuy nhiên, nguồn lực đang bị hạn chế, trong đó, vốn đầu tư toàn xã hội vào ĐBSCL đang là một thách thức.

Vốn đầu tư vào ĐBSCL đang ở mức độ như thế nào, thưa ông?

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bao gồm vốn đầu tư công của Trung ương và địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế, giúp xã hội phát triển; vốn doanh nghiệp/tập đoàn nhà nước để thực hiện chủ trương, đường lối của nhà nước, phục vụ phát triển; vốn khu vực tư nhân; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn viện trợ, hợp tác quốc tế. Tổng các nguồn vốn này vào ĐBSCL có tăng, nhưng ở mức thấp nhất so với các vùng khác.

Chẳng hạn, vốn đầu tư công, giai đoạn 2015-2023, đầu tư công vào ĐBSCL tăng gấp đôi so với giai đoạn trước (đạt gần 81.000 tỉ đồng năm 2023), nhưng tỷ lệ vốn cũng chỉ ngang Tây Nguyên và miền núi phía Bắc khi các vùng khác cũng tăng gấp đôi, thậm chí cao hơn.

Còn với dòng vốn tư nhân, ĐBSCL có nhiều ngành nghề chủ lực, gồm lúa gạo, thuỷ sản và trái cây, nhưng số doanh nghiệp tham gia chẳng những không tăng mà còn giảm. Trong đó, giai đoạn 2000-2010, riêng ngành chế biến cá tra có 160-180 doanh nghiệp hoạt động, thì hiện còn chưa đến 100 doanh nghiệp. Dĩ nhiên, quá trình cạnh tranh, đào thải làm doanh nghiệp giảm đi, nhưng rõ ràng doanh nghiệp mới xuất hiện cũng... không có.

Năm 2023, vốn tư nhân vào ĐBSCL đạt 153.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 60% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng con số tuyệt đối cũng chỉ tương đương khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Điều này cho thấy, số doanh nghiệp “sinh ra, lớn lên” và cả doanh nghiệp tư nhân trong nước đến vùng ĐBSCL là rất ít.

Không chỉ thế, quy mô doanh nghiệp khu vực tư nhân ĐBSCL quá nhỏ khi có 43% trên tổng vốn của khu vực tư nhân đến từ hộ gia đình và 57% là từ doanh nghiệp, tức quy mô không có. Nếu trừ các ngành có quy mô lớn ở lĩnh vực năng lượng (điện gió, điện mặt trời, chiếm số vốn rất lớn), thì quy mô của phần doanh nghiệp tư nhân còn lại khá thấp.

Từ vấn đề nêu trên cho thấy, nguồn lực đầu tư vào ĐBSCL là rất ít.

Hạ tầng được đầu tư giúp đi lại thuận tiện, nhưng chưa kết nối được sản xuất, kinh doanh. Ảnh: Trung Chánh

Nhiều “rào cản”, hiệu quả sử dụng vốn thấp

Đâu là lý do khiến nguồn lực đầu tư vào ĐBSCL ngày một hạn chế, thưa ông?

- Nguồn lực đầu tư vào ĐBSCL bị cản trở bởi rất nhiều yếu tố, gồm điều kiện kinh doanh, môi trường pháp lý, quy hoạch, chính sách… khiến khu vực này trở nên kém hấp dẫn.

Tuy nhiên, quan trọng nhất, đó là vấn đề hạ tầng, dù 5 năm trở lại đây cao tốc mở ra nhiều, giúp đi lại thuận lợi hơn, tuy nhiên, mới dừng lại ở trục chính, trong khi hệ thống nối kết, cảng biển, công nghiệp, hệ thống logistics, điện, nước chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

Ví dụ, với khu công nghiệp, nhiều địa phương xây dựng, nhưng không đáp ứng về nguồn lực, trong khi khả năng trung chuyển, đóng gói, giao nhận rất ít, khiến doanh nghiệp chọn đặt nhà máy xa vùng nguyên liệu, nhưng thuận lợi là gần cảng, gần điều kiện vận chuyển, lao động…

Rõ ràng, Chính phủ đầu tư vào giao thông mới là bước đầu, chưa giải quyết tất cả nên vốn đầu tư tư nhân, kể cả FDI ít vào ĐBSCL (chiếm chỉ 7% so với cả nước), chưa tạo “sức bật” cho ĐBSCL là như vậy.

Vốn vào ĐBSCL không chỉ “yếu”, mà hiệu quả sử dụng còn thấp, ông có thể đưa ra phân tích cho nhận định này?

- Quay lại câu chuyện vốn khu vực nhà nước (doanh nghiệp/tập đoàn nhà nước), giai đoạn 2014-2023, đầu tư vào ĐBSCL từ 50.000 lên 80.000 tỉ đồng, bình quân mỗi năm tăng hơn 5% là con số ấn tượng vì bằng bình quân cả nước.

Tuy nhiên, về cơ cấu, nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ chiếm 85-87% trên tổng vốn, trong khi lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến lại thiếu vắng, dù lẽ ra đây là lĩnh vực cần được “yểm trợ”.

Trong khi đó, như đã phân tích, doanh nghiệp tư nhân ở ĐBSCL lại “bé bé, con con”, tức động lực để thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến của ĐBSCL phát triển là không có.

Rõ ràng, những nơi có năng suất cao thì thiếu nguồn vốn, trong khi nơi năng suất thấp như dịch vụ lại đầu tư lớn hơn. Tuy nhiên, khai thác không hiệu quả, bởi thu nhập người dân thấp (thu nhập bình quân đầu người vùng ĐBSCL năm 2024 đạt 80,7 triệu đồng/người/năm, đứng 5 trên 6 vùng cả nước), trong khi khách du lịch đến không nhiều.

Vấn đề ở trên cũng được chứng minh, khi 10 năm trước tổng mức bán lẻ, dịch vụ của ĐBSCL đứng đầu cả nước, nhưng hiện nay chỉ ở mức trung bình cả nước, tức sức mua của khu vực này đang giảm dần.

Còn xét ở tỷ trọng đầu tư, vốn/tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), dòng vốn đầu tư ở ĐBSCL đang kém hiệu quả khi “chạy” vào một số lĩnh vực không tạo ra năng suất, làm hao hụt nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư để bù đắp sự tàn phá, ảnh hưởng tiêu cực của thiên nhiên.

Cần chính sách khác biệt để thu hút đầu tư vào công nghiệp chế biến, nông nghiệp của ĐBSCL. Ảnh: Trung Chánh

Cần chính sách khác biệt để hấp dẫn

Đâu là giải pháp để tăng đầu tư cho khu vực ĐBSCL, kể cả kéo dòng vốn tư nhân đến đây nhằm giải quyết bài toán phát triển cho vùng?

- Rõ ràng, nguồn vốn đầu tư, thì không thể nào “định hướng, ép buộc” được, bởi đây là vấn đề về thị trường và do doanh nghiệp đầu tư. Trong khi đó, nhà nước tham gia đầu tư ở khu vực công, tức về hạ tầng theo phân bổ nguồn lực.

Do đó, từ vị trí, vai trò của khu vực ĐBSCL như đã phân tích, khuyến nghị đầu tiên, đó là nhà nước cần phải đầu tư mạnh và nhiều hơn.

Như đã nêu, việc tăng gấp đôi số đầu tư công vào ĐBSCL giai đoạn vừa qua là tín hiệu cho thấy sự quan tâm của Chính phủ. Thế nhưng, số tuyệt đối chỉ bằng miền núi phía Bắc và Tây nguyên, tức so với những vùng kinh tế khác, ĐBSCL chưa có nhiều.

Trong khi đó, như đã phân tích, hạ tầng chưa đáp ứng nên cần đổ thêm vốn vào ĐBSCL, mà khi hạ tầng hoàn thiện sẽ hấp dẫn được nhà đầu tư.

Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư vào ĐBSCL phải đúng chỗ, tức để thương mại, dịch vụ phát triển, thì thu nhập người dân phải tăng lên. Điều này, đòi hỏi phải có việc làm, tức phải có nhà đầu tư, mà vùng ĐBSCL thế mạnh là công nghiệp chế biến và nông nghiệp.

Như vậy, phải có chính sách để thu hút, có thể là ưu đãi thuế riêng cho khu vực ĐBSCL; ưu đãi về lao động, điều kiện hạ tầng, điện, nước, xử lý ô nhiễm môi trường… Nhà nước phải hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ; ưu tiên nông nghiệp, công nghiệp chế biến được vay vốn ưu đãi. Chính sách phải tạo được  sự khác biệt mới đủ sức hấp dẫn.

Hơn hết, khi vùng này phát triển, thu nhập người dân tăng, thì tự khắc khu vực thương mại dịch vụ phát triển theo vì lúc đó thu nhập người dân đã tăng, tức họ sẵn sàng chi tiêu.

Một đặc điểm thú vị của ĐBSCL, đó là riêng giá trị thặng dư xuất khẩu của vùng chiếm gần một nửa tổng thặng dư của quốc gia mỗi năm. Điều này cho thấy, với một khoản đầu tư mang lại lợi nhuận rất lớn ở khu vực này, tại sao không tiếp tục đầu tư để cho quốc gia làm giàu?

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới