Chính sách tùy nghi và hệ quả
![]() |
(minh họa: Khều) |
(TBKTSG) - Vào giữa năm 2004, khi lạm phát của Việt Nam bắt đầu tăng lên cao hơn nhiều năm trước đó thì người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuyên bố rằng sẽ kiểm soát được nó và đảm bảo rằng lạm phát của cả năm này là khoảng 7%.
Để đạt được điều này, ngân hàng sẽ kiểm soát tăng tín dụng không quá 25%. Nhưng rốt cuộc, lạm phát năm này là 9,5% và tốc độ tăng trưởng tín dụng theo báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) là 32%.
Năm kế tiếp, 2005, người đứng đầu cơ quan trên cũng tuyên bố rằng sẽ kiểm soát lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng và kiểm soát tăng trưởng tín dụng không quá 25%. Một lần nữa, lạm phát trong năm này không thấp hơn tăng trưởng và tín dụng, cũng theo báo cáo của IMF, tăng ở mức 31%.
Lý thuyết kinh tế gọi đó là sự bất nhất của chính sách tùy nghi. Sự bất nhất này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của chính sách kinh tế theo thời gian.
Chính sách tùy nghi
Hiểu một cách đơn giản, sự bất nhất của chính sách cũng giống như sự bất nhất trong cách bố mẹ giáo dục con cái của mình. Thông báo rằng chúng sẽ bị “đánh đòn” khi phạm một quy định nào đó. Nhưng khi chúng vi phạm thì bố mẹ thường không phạt vì mình cũng “đau” khi đánh con. Và như thế, bọn trẻ tiếp tục hành động cứ như thể không có quy định nào cả.
Nhà làm chính sách có quyền lựa chọn can thiệp theo quy tắc (rules) hoặc theo kiểu tùy nghi (discretion). Chính sách theo quy tắc là chính phủ công bố một quy tắc hay công thức mô tả phản ứng chính sách của mình một cách nhất quán theo thời gian và không thể tự ý đảo ngược.
Ngược lại, một chính sách tùy nghi là chính phủ quyết định chính sách cho từng tình huống hay từng thời kỳ cụ thể và quyết định chính sách của thời kỳ này không liên hệ đến thời kỳ khác.
Chính sách tùy nghi có thể dẫn đến một vấn đề gọi là sự bất nhất, đó là công bố trước một luật chơi và tác động vào kỳ vọng của người dân. Sau khi người dân hình thành kỳ vọng thì chính phủ lại không làm đúng như thông báo ban đầu của mình.
Bất kỳ một chính sách nào, kết quả của nó không những bắt nguồn từ mục tiêu mong muốn của chính phủ mà còn phụ thuộc vào phản ứng của người dân. Nếu người dân có kỳ vọng khác với chính phủ dự đoán thì tác động của chính sách có thể đi chệch hướng mà chính phủ dự tính ban đầu.
Hai nhà kinh tế học Finn Kydland và Edward Prescott đã nhận giải Nobel kinh tế vào năm 2004 vì đã đóng góp vào lý thuyết kinh tế những vấn đề vừa đề cập ở trên. Hai ông cũng chứng minh rằng, chính sách tiền tệ tùy nghi có xu hướng tạo ra lạm phát cao hơn là chính sách tiền tệ theo quy tắc bởi vì thường bất nhất.
Kinh nghiệm Paul Volcker
Paul Volcker được cử làm chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang (tức ngân hàng trung ương của Mỹ, gọi tắt là FED) vào tháng 8-1979 trong bối cảnh lạm phát của nước Mỹ ở mức hai con số. Volcker tuyên bố chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu của FED và bắt đầu cắt giảm mức tăng cung tiền.
Trong những năm đầu, có lẽ dân chúng không tin điều này nên lạm phát vẫn chưa giảm cùng với hậu quả là suy thoái kinh tế cũng như thất nghiệp gia tăng trong những năm 1981-1982. Cho dù vậy, Volcker xem đó như là một cái giá phải trả để theo đuổi mục tiêu tuyên bố ban đầu của mình.
Đến cuối năm 1982 thì lạm phát đã giảm đi một nửa. Thành quả này là quan trọng và đã giúp ông phát huy hiệu quả của chính sách tiền tệ trong những năm sau đó. Cụ thể là có một vài năm, chẳng hạn như 1983, 1985-1986 Volcker đã “thình lình” tăng cung tiền cao hơn mức bình thường để thúc đẩy tăng trưởng nhưng lạm phát vẫn không tăng bởi vì dân chúng có lẽ đã tin rằng lạm phát không bao giờ trở lại một khi mà Volcker còn điều hành FED. Volcker có lẽ cũng không dại gì đánh mất danh tiếng chống lạm phát mà mình đã dày công xây dựng.
Một giải pháp giảm lạm phát cho Việt Nam
Trở lại câu chuyện về chính sách tiền tệ của Việt Nam nói ở đầu bài, đó là lạm phát và mức tăng tín dụng diễn ra trên thực tế khác với thông báo ban đầu. Dĩ nhiên lạm phát không phải bắt nguồn duy nhất từ tốc độ tăng trưởng tín dụng mà nó còn bắt nguồn từ vô số nguyên nhân nằm ngoài dự tính, ví dụ như giá dầu thế giới tăng vọt.
Sự khác nhau giữa lạm phát mục tiêu với lạm phát thực tế có thể là do vấn đề dự báo. Nhưng sự bất nhất nằm ở các biến số trong tầm tay của NHNN như mức tăng tín dụng hay rộng hơn là mức tăng cung tiền. Người đứng đầu của tổ chức này có trách nhiệm kiểm soát nó theo mục tiêu.
Trong trường hợp Việt Nam, trách nhiệm này có thể không chỉ nằm ở người đứng đầu ngân hàng trung ương. NHNN hiện giờ là một thành viên của Chính phủ và như vậy Chính phủ có trách nhiệm bao trùm cả tăng trưởng và ổn định giá.
Chính phủ vừa rồi đã hoán đổi tầm quan trọng giữa hai mục tiêu là lạm phát và tăng trưởng, theo đó mục tiêu giảm lạm phát là quan trọng hơn mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn hiện nay. Sự cam kết này có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng của dân chúng trong tương lai gần. Nhưng nó có thể không có tác dụng nếu những cam kết của chính phủ thiếu nhất quán như đã xảy ra trong quá khứ.
Trong bối cảnh lạm phát cao hiện nay, có lẽ người dân cần nhất là những lời cam kết đủ mạnh và kiên định, một lộ trình chính sách đủ rõ ràng và đủ xa.
NGUYỄN HOÀI BẢO - Khoa Kinh tế phát triển, Đại học Kinh tế TPHCM