Công nghiệp dầu khí: những vấn đề của tương lai
Lê Hà
![]() |
(TBKTSG) - Trong những năm qua, dầu khí luôn là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP và chiếm từ 18-20% giá trị xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, làm sao để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này một cách hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế cao đang là vấn đề không của riêng ngành dầu khí.
Tiềm năng không lớn, song vẫn dồi dào
Đây là nhận định của GS.TS. Trần Ngọc Toản, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Dầu khí và là một trong những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này.
Theo thống kê của ông Toản, so với thế giới, sản lượng dầu khí của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,3%. Còn so sánh với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 6/15 quốc gia về sản lượng (sau Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Úc), đạt khoảng 350.000 thùng dầu/ngày; nhưng về sản lượng tính theo đầu người, Việt Nam đứng thứ 7/15 quốc gia (cao hơn Trung Quốc).
Nếu tính theo mặt bằng chung về nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trên thế giới hiện nay, trung bình một người dùng hết 5 thùng dầu/năm, thì Việt Nam mới chỉ đạt 0,95-1 thùng/người/năm (trong khi Trung Quốc là 1,7 thùng/người/năm).
Do đó, về cơ bản đến năm 2020 (năm mà chúng ta xác định thời điểm trở thành một nước công nghiệp), với số dân khoảng trên 100 triệu người thì tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu là 75 triệu tấn/năm (tính theo mức trung bình trên thế giới hiện nay).
Còn nếu lấy mức trung bình của Trung Quốc ở thời điểm hiện tại, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của chúng ta vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Rõ ràng với sản lượng khai thác và công tác tìm kiếm, thăm dò như hiện nay không thể nào đáp ứng được nhu cầu.
Thời gian qua, trong công tác thăm dò, theo GS.TS. Toản, chúng ta đã xác định được tám bể trầm tích có khả năng chứa dầu, với tổng diện tích gần 1 triệu ki lô mét vuông, gồm: bể Sông Hồng (vịnh Bắc bộ) diện tích khoảng 160.000 ki lô mét vuông; bể Phú Khánh (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận) 40.000 ki lô mét vuông; bể Cửu Long (Bà Rịa-Vũng Tàu) 60.000 ki lô mét vuông; bể Nam Côn Sơn khoảng 40.000 ki lô mét vuông; bể Mã Lai - Thổ Chu (gần vịnh Thái Lan) 40.000 ki lô mét vuông; bể Vũng Mây - Tư Chính (giữa Nam Côn Sơn và quần đảo Trường Sa) 60.000 ki lô mét vuông và một vài bể ở Hoàng Sa và Trường Sa là chưa xác định được. Dự báo trữ lượng của các bể nói trên khoảng 4 tỉ tấn dầu tương đương (nghĩa là bao gồm cả khí thiên nhiên).
Cần nâng cao chất lượng khai thác
Trữ lượng dự báo như vậy, song trên thực tế chúng ta mới xác minh (trữ lượng xác minh) được khoảng 1 tỉ tấn dầu quy đổi. Và thực tế hiện nay mức độ khai thác của Việt Nam mới đạt 30% (thế giới từ 40-45%), nên trữ lượng thu hồi không vượt quá 400 triệu tấn dầu quy đổi. Cũng theo ông Toản, “trong số 400 triệu tấn dầu khí (trữ lượng thu hồi), chúng ta đã khai thác được trên 150 triệu tấn, sản lượng còn lại là 250 triệu tấn”. Do đó, trong thời gian tới nếu ngành dầu khí không nâng cao trữ lượng thu hồi và nhanh chóng tìm ra những mỏ mới, thì không thể đáp ứng được nhu cầu hiện nay (dẫu chúng ta vẫn phải xuất khẩu dầu thô để nhập khẩu xăng dầu). Muốn làm được điều đó, Chính phủ cũng như bản thân ngành dầu khí phải có những khoản đầu tư thích đáng trong lĩnh vực thăm dò và tìm kiếm.
Thống kê cho thấy sản lượng khai thác của toàn ngành năm 2004 (triệu tấn dầu quy đổi) là trên 17 triệu tấn, năm 2005 là 18,5 triệu tấn. Năm 2008, với việc đưa thêm năm mỏ mới vào khai thác, tổng sản lượng khai thác toàn ngành đạt 15 triệu tấn dầu và condensate, cùng 7,5 tỉ mét khối khí, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 7 tỉ đô la Mỹ.
Vì thế, để duy trì khả năng khai thác, theo các chuyên gia kinh tế, trong những năm tới sản lượng khai thác chỉ nên dừng lại ở con số 20 triệu tấn/năm. Nếu khai thác tràn lan, thì sau này lượng dầu, khí sẽ cạn kiệt, mà lượng ngoại tệ thu về cho ngân sách quốc gia cũng không lớn. Đơn cử, năm 2008 doanh thu từ khai thác dầu khí đạt khoảng 8 tỉ đô la (xuất khẩu khoảng 7 tỉ đô la), nhưng phần Việt Nam thu được cũng chỉ đạt từ 60-65%.
Còn xét trên khía cạnh gia tăng (GDP tăng thêm), năm 2008 toàn ngành xuất khẩu khoảng 7 tỉ đô la, song nhập khẩu dầu tinh (xăng, dầu...) cho sử dụng trong nước đã lên tới 12 triệu tấn (tương đương gần 7 tỉ đô la). Tính ra, kim ngạch xuất khẩu vừa đủ để nhập khẩu xăng, dầu. Rõ ràng, phần giá trị tăng thêm (hay nói đúng hơn là phần lợi nhuận) vô tình đã “đổ” về phía các doanh nghiệp nước ngoài (các công ty chế biến).
Nói tóm lại, trong suốt hơn hai thập kỷ qua, dù dầu khí là ngành có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế đất nước, song xét trên bình diện hiệu quả, chúng ta đã bị lãng phí nhiều tỉ đô la Mỹ từ chính nguồn tài nguyên quý giá này. Đơn cử, 1 đô la Mỹ dầu thô ở các nước phát triển, người ta có thể thu về 0,5 hoặc gần 1 đô la giá trị gia tăng từ các sản phẩm sau chế biến (các loại xăng, dầu, nhựa đường, nhựa…). Nghĩa là trong tổng số 15-18 triệu tấn dầu thô xuất khẩu, mang về giá trị 5-7 tỉ đô la cho nước ta hàng năm, thì phía nước ngoài đã thu lời bằng khoảng chừng ấy tiền hoặc hơn thế nữa thông qua giá trị gia tăng của các loại sản phẩm đã được chế biến thành hàng hóa.
Để khai thác bền vững
Theo khuyến cáo của các chuyên gia trong lĩnh vực dầu khí, trong thời gian tới phải chú trọng đến các khía cạnh: cân đối, đồng bộ và bảo đảm cho sự tăng trưởng. Để làm tốt điều này, hiện nay ngành dầu khí đang tập trung đẩy mạnh vào ba vấn đề trọng tâm, đó là: đầu tư trong công tác tìm kiếm, thăm dò để đảm bảo đủ tài nguyên khai thác trong nhiều năm; áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật để lấy lượng dầu khai thác cao (hiện mới chỉ đạt trên 30%) và khai thác hiệu quả Nhà máy Lọc dầu Dung Quất cũng như khẩn trương xây dựng các nhà máy lọc dầu đã và sẽ được phê duyệt.
Theo tính toán, cùng với Nhà máy Lọc dầu Dung Quất công suất 6,5 triệu tấn/năm, nếu chúng ta tiến hành xây dựng thêm hai nhà máy lọc dầu nữa, thì với sản lượng khai thác như hiện nay đủ để cung cấp cho các nhà máy nói trên hoạt động. Và cũng có thể đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong nước. Trong tương lai, dầu khí vẫn là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, vì vậy bên cạnh việc khai thác tiết kiệm, hiệu quả cũng như ra sức tìm kiếm các mỏ mới trên thềm lục địa Việt Nam và hợp tác tìm kiếm bên ngoài lãnh thổ, điều quan trọng chúng ta phải tận dụng triệt để khai thác giá trị gia tăng từ chính nguồn dầu của chúng ta.