Thứ bảy, 26/04/2025
27 C
Ho Chi Minh City

“Công nghiệp hóa” như thế nào?

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

“Công nghiệp hóa” như thế nào?

Vũ Thành Tự Anh (Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright)

(TBKTSG) - LTS: Muốn công nghiệp hóa đất nước, việc đầu tiên là phải xác định thế nào là một nền kinh tế công nghiệp hóa, nền công nghiệp mà chúng ta muốn xây dựng có những đặc điểm gì, các nước lân cận đã công nghiệp hóa như thế nào... TBKTSG giới thiệu bài viết sau như một đóng góp làm rõ các vấn đề nêu trên.

Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam, công nghiệp hóa luôn là một mục tiêu chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Trong thời kỳ trước 1989, chính sách công nghiệp bị chi phối bởi yêu cầu của chiến tranh và nỗ lực kiến tạo một nền công nghiệp theo mô hình Xô viết. Nỗ lực này kết thúc với sự sụp đổ của thị trường chung Comecon và được thay thế bởi chính sách công nghiệp ít nhiều chịu ảnh hưởng từ kinh nghiệm của một số nước láng giềng Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, và Hàn Quốc.

Đại hội VIII (1996) của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành “một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại.” Mục tiêu này được diễn đạt một cách thận trọng hơn trong văn kiện của Đại hội IX (2001) rằng “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Thông báo của Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ngày 28-3-2010 một lần nữa khẳng định đây là một mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.

Mặc dù mục tiêu này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng cho đến nay, chưa thấy có một định nghĩa cụ thể để từ đó có thể xác định một nền công nghiệp như thế nào thì được coi là về cơ bản theo hướng hiện đại.

Trong hệ thống phân loại mức độ phát triển công nghiệp, Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO) nói chung căn cứ vào ba tiêu chí, bao gồm giá trị gia tăng hàng công nghiệp chế tạo (MVA) trên đầu người, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, và tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo trong GDP để phân các nước thành 5 nhóm: công nghiệp hóa, công nghiệp hóa mới thế hệ thứ nhất (NICs), công nghiệp hóa mới thế hệ thứ hai, đang phát triển, và chậm phát triển. Theo cách phân loại này, ở châu Á, chỉ có Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Hồng Kông thuộc nhóm NICs.

Lưu ý rằng trong hệ thống phân loại này, UNIDO bỏ qua hai chỉ tiêu hết sức quan trọng. Thứ nhất là tỷ trọng lao động công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế tạo) trong tổng lượng lao động. Về mặt lý thuyết, so với các chỉ tiêu dựa vào MVA, chỉ tiêu về lao động đo lường đúng hơn trình độ công nghiệp hóa của một quốc gia vì nó phản ảnh sự dịch chuyển về con người và tri thức trong nền kinh tế. Thứ hai, UNIDO cũng bỏ qua chỉ tiêu về tỷ trọng của công nghiệp chế tạo công nghệ cao, và như thế vô hình trung đã đánh đồng “micro chip” với “potato chip” - tuy cùng là chip nhưng trình độ và sức lan tỏa về công nghệ hết sức khác nhau.

Quay lại mục tiêu về công nghiệp hóa, ngay cả khi căn cứ vào tiêu thức đơn giản nhất là MVA trên đầu người thì khoảng cách giữa Việt Nam và một số nước có nền công nghiệp thành công hơn trong khu vực vẫn còn rất xa. Cụ thể là theo giá hiện tại, MVA trên đầu người của Việt Nam vào năm 2008 là khoảng 200 đô la. Trung Quốc đạt được mức này năm 1995, Thái Lan năm 1986, Malaysia năm 1977, và Hàn Quốc năm 1976 (xem đồ thị).

Điều này cũng có nghĩa là, nếu như chúng ta coi Thái Lan hiện nay đã cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì ngay cả khi chúng ta tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp rất cao hiện nay thì cũng phải đến 2025, MVA trên đầu người của Việt Nam mới tương đương mức của Thái Lan năm 2008, tức là khoảng 1.400 đô la. Nếu sử dụng tiêu chuẩn cao hơn, coi Malaysia vào năm 2008 cơ bản có nền công nghiệp theo hướng hiện đại thì phải đến 2030, MVA trên đầu người của Việt Nam mới đạt được mức của Malaysia hiện nay, tất nhiên là với điều kiện công nghiệp Việt Nam duy trì được mức tăng trưởng trên 10% như hiện nay. Lưu ý rằng theo UNIDO, cả Malaysia và Thái Lan cho đến nay vẫn chưa được coi là những nền công nghiệp tiên tiến.

Đặt ra mục tiêu phát triển công nghiệp mới chỉ là một bước khởi đầu trong việc hình thành nên chiến lược và chính sách công nghiệp của một quốc gia. Tuy nhiên, việc đặt mục tiêu không rõ ràng hay không khả thi có thể sẽ phải trả những cái giá rất đắt trong tương lai, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế và công nghiệp toàn cầu đang vận động với tốc độ rất nhanh như hiện nay. Bên cạnh đó, cũng phải nhấn mạnh rằng thường thì các quốc gia chỉ nghĩ về chính sách công nghiệp như một phần, thậm chí chỉ là một phần nhỏ của hệ thống chính sách và thể chế thật sự định hình sự phát triển công nghiệp.

Trên phương diện này, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Một cách đúng đắn, chính sách công nghiệp ở Việt Nam cũng như ở các nước khác phải bao gồm rất nhiều hợp phần, từ chính sách kinh tế vĩ mô cho đến việc xây dựng các thể chế hỗ trợ thị trường hiệu quả cho đến các biện pháp khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.

Công nghiệp hóa không chỉ có xi măng, sắt thép

Ý kiến của ông Nguyễn Trung, cựu Đại sứ Việt Nam tại Úc và Thái Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề công nghiệp hóa ở Việt Nam.

Nhìn chung cho đến nay kinh tế nước ta vẫn vận hành theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng: chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh về lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên, đẩy mạnh đầu tư từ các nguồn trong nước và nước ngoài. Trên thực tế nước ta đang đi vào xu thế trở thành nước đi làm thuê và đất nước cho thuê.

Các xí nghiệp xi măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm 2020 sẽ dư thừa khoảng một chục triệu tấn xi măng/năm và khoảng hai chục triệu tấn thép/năm trong khi đất nước ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của nước ta như vậy là để trở thành cường quốc xi măng và thép trong thế kỷ 21 này? Hoàn thành những dự án đã triển khai hay đã được phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa hẹn cảnh quan, môi trường tự nhiên nhiều vùng của đất nước sẽ bị suy thoái nghiêm trọng. Trong khi một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử... có thể được coi là thất bại, nước ta lại nhập về công nghiệp chế tạo cơ khí nặng như đóng tàu đang thua lỗ... Công nghiệp hóa như vậy nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp rất lớn.

Từ năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta suốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước. Năm 2012 đã tính đến phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát triển thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng. Trong khi đó Nhà nước lại chưa nghiêm khắc rà soát, đánh giá lại chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu nỗ lực xử lý nghiêm khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay.

Vũ Huyền ghi

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới