(KTSG) - Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) đang “ào ạt” đổ vào Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Đây là cơ hội để Việt Nam bổ sung thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế, song cũng cần hết sức cẩn trọng bởi nhiều lẽ.
- Vốn FDI chảy vào Trung Quốc giảm xuống thấp nhất 18 năm
- Việt Nam và chiến lược hút FDI công nghệ cao của Trung Quốc
FDI từ Trung Quốc tăng cao
Thực tế, từ năm 2010 trở về trước, dòng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam khá khiêm tốn. Trong tốp 10 quốc gia đầu tư vào Việt Nam, hầu như không có tên của Trung Quốc. Nhưng gió đã đổi chiều, kể từ năm 2011 trở lại đây, vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam có sự thay đổi đáng kể. Vốn FDI của Trung Quốc tại Việt Nam liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn.
Điển hình là từ năm 2015 trở lại đây, cùng với việc Việt Nam đàm phán nước rút rồi ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào năm 2016, Trung Quốc thường nằm trong tốp 10 quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam để đón đầu cơ hội thâm nhập thị trường béo bở TPP (sau này TPP đổi tên thành Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), bao gồm các thành viên TPP trừ Mỹ). Và, dường như Trung Quốc cũng đã đón đầu được cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Theo Tổng cục Thống kê, nếu như năm 2011, số vốn đăng ký của Trung Quốc (bao gồm Đài Loan) là 1,3 tỉ đô la Mỹ thì đến năm 2017, số vốn đăng ký của Trung Quốc tăng 2,7 lần, bình quân mỗi năm tăng khoảng 18%. Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, bảy tháng đầu năm 2023, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam hơn 2,33 tỉ đô la. Vượt cả Nhật Bản, Trung Quốc đứng thứ 3 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư lớn vào Việt Nam.
Thực tế, kể từ khi căng thẳng Mỹ - Trung nổ ra, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ. Bất chấp đại dịch Covid-19, Trung Quốc vẫn đăng ký đầu tư không ít vào Việt Nam và luôn đứng ở vị trí thứ 3, thứ 4 trong các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam.
Năm 2020, vốn đăng ký từ Trung Quốc vào Việt Nam là 2,46 tỉ đô la, năm 2021 là 2,92 tỉ đô la, năm 2022 là 2,5 tỉ đô la và nay, sau bảy tháng đầu năm 2023, con số đã xấp xỉ mức trong cả năm của những năm trước đó. Thậm chí, nếu xét về số lượng dự án mới thì Trung Quốc xếp hạng nhất, với 325 dự án. Đấy là chưa kể luồng vốn ngầm đầu tư qua các kênh khác mà cơ quan thống kê không thể quan sát.
Phải chăng do chiến lược thu lợi từ bên ngoài của Trung Quốc từ thu nhập từ sở hữu
Dòng vốn FDI từ Trung Quốc chọn Việt Nam là điểm đến phải chăng do chiến lược của Chính phủ Trung Quốc hiện nay có phần thay đổi. Đó là khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để thu lợi từ thu nhập từ sở hữu, bù đắp cho những khó khăn ở trong nước.
Cho đến nay, thực trạng kinh tế Trung Quốc được che dưới lớp vải điều của tăng trưởng GDP. Trong khi đó, năng suất nhân tố tổng hợp và hiệu quả đầu tư của Trung Quốc sụt giảm liên tục.
Để tránh kinh tế suy thoái, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư (chiếm khoảng 50% GDP). Do cầu tiêu dùng của Trung Quốc bao gồm cả tiêu dùng của chính phủ trong một thời gian dài chỉ loanh quanh ở mức 50% GDP (của Việt Nam ở mức 65%), sự cố gắng này dường như đã tới hạn với nợ công ngày càng có xu hướng tăng cao (có số liệu cho rằng nợ công của Trung Quốc ít nhất là 30.000 tỉ đô la).
Trong những năm gần đây, khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư (gross capital formation) của Trung Quốc ngày càng bị thu hẹp. Để tăng sức mạnh của nền kinh tế, họ chú trọng vào chỉ tiêu tiết kiệm - là nguồn lực cơ bản để tái đầu tư, phần còn lại có thể cho vay lấy lãi. Như vậy, có thể dự đoán rằng Trung Quốc không còn cố gắng làm tăng chỉ tiêu không mấy ý nghĩa như GDP mà tập trung nâng cao năng lực thực sự từ tổng thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) và tiết kiệm (saving) thông qua thu nhập từ sở hữu, mà thu nhập từ sở hữu cơ bản do các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc ở các nước mang lại.
Trong quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ, số liệu thống kê của Trung Quốc và Mỹ cho thấy Trung Quốc có phần bất lợi. Chẳng hạn năm 2017 hàng hóa của Trung Quốc vào Mỹ nhiều gấp gần 4 lần hàng hóa của Mỹ vào Trung Quốc. Như vậy, trong việc áp thuế nhập khẩu lên hàng hóa giữa hai nước, Trung Quốc thiệt thòi thấy rõ. Để chống trả lại việc này, Trung Quốc phải lôi kéo (kết hợp) các nước khác ký kết các hiệp định thương mại tự do và cố gắng đưa hàng hóa xâm nhập vào chuỗi giá trị của các nước khác mà Việt Nam có vẻ là điểm đến thích hợp.
Xem xét cấu trúc kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc cho thấy: Cấu trúc kinh tế của Trung Quốc do phía cung dồi dào nên khi can thiệp vào phía cầu cuối cùng (final demand) làm tăng sản lượng (output) và tổng giá trị gia tăng (gross value added) rất mạnh mẽ, điều này hoàn toàn ngược lại với Việt Nam.
Đối với Trung Quốc việc tiêu dùng nội địa lan tỏa đến thu nhập ngang với xuất khẩu (1 đồng tăng lên của tiêu dùng nội địa lan tỏa đến thu nhập 0,76 đồng và lan tỏa đến xuất khẩu là 0,79 đồng); trong khi đó ở Việt Nam lan tỏa từ tiêu dùng nội địa đến thu nhập và xuất khẩu tương ứng chỉ là 0,42 và 0,47.
Đầu tư cũng vậy, khi Trung Quốc đầu tư 1 đơn vị lan tỏa đến thu nhập 0,66; hơn ở Việt Nam gần 20 điểm phần trăm. Như vậy có thể thấy phía cung của Trung Quốc rất dồi dào nên khi can thiệp vào phía cầu cuối cùng sẽ lan tỏa đến phía cung và giá trị tăng thêm (điều này hoàn toàn không giống Việt Nam).
Do đó, định hướng xây dựng nền kinh tế “độc lập, tự chủ gắn với hội nhập” xuất phát từ tư tưởng xuyên suốt của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là rất cấp thiết và cần có cơ chế chính sách thích hợp để thực hiện càng sớm càng tốt.