Thứ hai, 4/11/2024
35.6 C
Ho Chi Minh City

ĐBSCL có thể sẽ vất vả với một ‘siêu El Nino 2023-2024’

Nguyễn Hữu Thiện(*)

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - ĐBSCL đã từng trải qua hai mùa hạn mặn gay gắt do El Nino gây ra hồi 2015-2016 và 2019-2020, nhưng đó mới chỉ là El Nino mạnh, còn El Nino lần này có thể là một “siêu El Nino”. Nếu không may điều này là sự thật, ĐBSCL sẽ phải đối mặt với tình trạng hạn mặn nặng nề thêm, kéo theo đó là những “đói cát, đói phù sa, đói nước thủy điện…” làm ảnh hưởng đến cả vụ sản xuất năm sau.

Trạm bơm Bình Phan, Tiền Giang trong mùa khô 2019-2020. Ảnh: Trung Chánh

Trong thế kỷ 20 và 21 chỉ có hai lần “siêu El Nino” diễn ra vào năm 1982-1983 và 1997-1998. Hiện nay trên các diễn đàn thảo luận quốc tế, các chuyên gia khí hậu lo rằng lần này có thể là một siêu El Nino lần ba.

Ngày 8-6-2023, Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ (NOAA) tuyên bố tình trạng El Nino đã chính thức bắt đầu. Màn mở đầu của El Nino lần này là nhiều những trận bão diễn ra ở Thái Bình Dương, những trận cháy rừng ở Indonesia, và đợt nắng nóng vừa qua mà chúng ta đã biết.

El Nino là gì?

El Nino trong tiếng Tây Ban Nha nghĩa là cậu bé để chỉ giai đoạn nóng của chu kỳ khí hậu ENSO và La Nina nghĩa là cô bé để chỉ giai đoạn lạnh. Chu kỳ ENSO là chu kỳ tự nhiên của khí hậu với El Nino và La Nina luân phiên diễn ra trong khoảng 2-7 năm. Khi nào không có El Nino cũng không có La Nina thì gọi là giai đoạn ENSO trung tính.

Khí quyển và đại dương luôn có sự tương tác. Sự tương tác này ở vùng nhiệt đới Thái Bình Dương tạo ra chu kỳ ENSO là chu kỳ có ảnh hưởng chính đến khí hậu toàn cầu. Sự thay đổi nhiệt độ bề mặt đại dương làm thay đổi lượng mưa và gió trên mặt biển, từ đó tạo ra những dòng hải lưu và thay đổi nhiệt độ bề mặt biển. Những sự thay đổi này tạo thành vòng lặp. Một sự thay đổi sẽ tạo ra sự thay đổi khác. Sự thay đổi đó lại là nguyên nhân gây ra sự thay đổi khác nữa, cứ như thế tiếp diễn và cuối cùng quay lại làm gia tăng sự thay đổi ban đầu.

Thông thường, gió Mậu dịch (do hiệu ứng Coriolis của sự quay trái đất tạo ra) thổi hướng Đông - Tây qua vùng nhiệt đới Thái Bình Dương đẩy nước nóng bề mặt đại dương về phía Tây, tức là hướng Đông Nam Á, đồng thời làm cho nước lạnh bên dưới đại dương trồi lên ở phía Nam Mỹ. Khi có El Nino thì gió Mậu dịch bị suy yếu, làm cho nước nóng bị đưa sang phía Nam Mỹ. Nước biển nóng phía Nam Mỹ làm cho không khí gần mặt biển bị nóng theo và gia tăng độ ẩm.

Không khí nóng và ẩm này được đưa lên khí quyển làm gia tăng lượng mưa. Theo đó, khi có El Nino thì phía Nam Mỹ gia tăng lượng mưa trong khi phía châu Á thì lại giảm lượng mưa. Sự nóng lên toàn cầu tạo ra nền nhiệt độ gia tăng và điều này làm cho chu kỳ ENSO tự nhiên trở nên thường xuyên cực đoan hơn.

Ảnh hưởng đến ĐBSCL

ĐBSCL đã từng trải qua hai mùa hạn mặn gay gắt hồi 2015-2016 và 2019-2020 và đã có ít nhiều kinh nghiệm. Hiện tại, chúng ta vẫn chưa rõ cường độ El Nino lần này mạnh đến mức nào. Trong tình huống một El Nino mạnh diễn ra thì kịch bản cho ĐBSCL sẽ là mùa mưa sắp tới từ tháng 6 đến tháng 11- 2023 ở các quốc gia lưu vực sông Mêkông và ở tại chỗ ĐBSCL sẽ ít. Tùy theo độ mạnh của El Nino thì lượng mưa sẽ giảm tương ứng. Nếu El Nino năm nay cực đoan như hồi mùa mưa 2015 và 2019 thì lượng mưa trong mùa mưa 2023 sắp tới sẽ thấp như lượng mưa 2015 và 2019 và mùa khô năm 2024 có thể gay gắt như mùa khô 2016 và 2020.

Lượng mưa ít trên lưu vực sông Mêkông sẽ dẫn đến mùa lũ năm nay sẽ thấp. Lượng thủy sản tự nhiên của sông Mêkông trôi về ĐBSCL sẽ ít vì cá không có nhiều môi trường để sinh sản. Ngoài ra, lượng phù sa bùn cát trôi về ĐBSCL theo mùa lũ cũng sẽ ít, đồng bằng sẽ càng “đói cát”.

Mùa lũ thấp sẽ ảnh hưởng đến vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nhất là các mô hình canh tác và sinh kế dựa vào mùa lũ như nuôi cá, tôm càng xanh trên đồng, các loại hình du lịch mùa lũ. Thiếu mùa lũ và phù sa năm nay sẽ ảnh hưởng đến vụ sản xuất năm sau.

Sang đến mùa khô 2024, mối lo sẽ là hạn mặn cho vùng ven biển. Khi nói về rủi ro hạn mặn ĐBSCL cần phải xét hai vùng riêng biệt là vùng cửa sông Cửu Long và vùng bán đảo Cà Mau.

Vùng cửa sông Cửu Long, do vị trí nằm ở phía cuối của lưu vực Mêkông cho nên vùng này chịu ảnh hưởng của biến động lượng nước ở phía thượng nguồn Mêkông, trong đó gồm biến đổi khí hậu ở thượng nguồn và sự vận hành của các hồ thủy điện.

Năm nào có El Nino mưa ít thì mùa lũ sông Mêkông thấp và sang đến mùa khô dòng sông Mêkông yếu. Khi dòng sông Mêkông thấp thì các đập thủy điện không đủ độ sâu để chạy turbine phát điện thì phải đóng đập để tích nước cho đủ độ sâu. Đập trên đóng thì đập dưới phải chờ, và đập kế tiếp phải chờ. Nước đi qua một chuỗi đập sẽ rất lâu, khi đó tình hình hạn mặn ĐBSCL sẽ rất gay gắt. Tức là khi xảy ra tình trạng khô hạn thì các thủy điện ở sông Mêkông càng làm cho tình hình hạn mặn tồi tệ thêm.

Gặp những năm El Nino cực đoan và thủy điện làm cho tồi tệ thêm như thế thì ở ĐBSCL các công trình ngăn mặn ven biển chỉ phát huy tác dụng vào đầu mùa khô. Đến giữa mùa khô thì dù có ngăn mặn từ biển vào, bên trong vẫn không có nước.

Vùng bán đảo Cà Mau ít chịu ảnh hưởng của sông Cửu Long. Lượng nước nơi này chủ yếu là do mưa tại chỗ. Ở vùng này, đất bên dưới là đất mặn, hàng năm có lớp nước mưa phủ lên bề mặt nên được sáu tháng ngọt nhưng khi sang mùa khô thì mặn vì hết nước ngọt. Năm nào ít mưa thì lớp nước ngọt cạn kiệt nhanh hơn.

Theo đó, đối với vùng bán đảo Cà Mau, gặp những năm khô hạn cực đoan, công trình ngăn mặn chỉ phát huy tác dụng vào đầu mùa khô. Đến giữa mùa khô thì dù có ngăn được mặn từ biển vào thì bên trong cũng không có nước và mặn từ dưới đất được mao dẫn đưa lên vì đất bên dưới vùng này là mặn.

Biện pháp nào để thích ứng cho ĐBSCL?

El Nino đã bắt đầu. Dù chúng ta vẫn chưa biết độ mạnh đến đâu, nhưng ngành nông nghiệp và bà con nông dân nên bắt đầu quan sát chặt chẽ tình hình để có thể ứng phó kịp thời.

Trước mắt, đối với vùng lũ đầu nguồn như Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, việc đầu tư cho mùa vụ canh tác và sinh kế dựa vào mùa lũ sắp tới nên dè dặt. Bà con sống bằng nghề đánh bắt cá tự nhiên năm nay khi đầu tư mua lưới và ngư cụ cũng nên thận trọng.

Sang mùa khô 2024, vấn đề chính sẽ là rủi ro hạn mặn gay gắt ở vùng ven biển và hàng loạt hệ lụy kéo theo. Còn nhớ El Nino xảy ra vào mùa mưa 2015 làm cho lượng mưa trong lưu vực Mêkông rất ít và mùa lũ 2015 rất thấp. Sang đến mùa khô 2016 thì sông Mêkông rất yếu, khi đó thủy điện đã tích nước để phát điện gián đoạn, làm cho tình hình hạn mặn rất gay gắt, đã gây thiệt hại 160.000 héc ta lúa mùa khô ven biển. Điều đó chứng tỏ công trình ngăn mặn không có tác dụng nhiều trong những năm hạn mặn cực đoan như thế.

Đến mùa mưa 2019, hiện tượng El Nino cực đoan lặp lại một lần nữa, sang mùa khô 2020 hạn mặn lại gay gắt, nhưng nhờ có kinh nghiệm lần trước, nên năm 2020 các tỉnh ven biển chủ động né vụ nên thiệt hại vào năm đó rất thấp so với năm 2016.

Theo đó, đối với những năm El Nino cực đoan quá mạnh thì chúng ta không nên đối đầu. Cách thích ứng tốt nhất trước mắt là chủ động né hạn mặn bằng cách điều chỉnh lịch thời vụ theo kinh nghiệm của các tỉnh ven biển hồi mùa khô 2020. Các cộng đồng ven biển cần chủ động tích trữ nước ngọt cho sinh hoạt trong mùa khô 2024.

Về lâu dài cần thực hiện theo Quy hoạch tích hợp ĐBSCL đã được Thủ tướng công bố tháng 6-2022. Theo đó, vùng ngọt được lùi vào phía trong còn vùng ngọt-lợ sẽ được trả lại tự nhiên và canh tác theo mùa mặn ngọt chứ không cố chống lại mặn như trước giờ nữa. Khi thích ứng với mặn ngọt theo mùa như vậy thì chúng ta không còn phải bị ám ảnh về mặn mỗi khi mùa khô đến nữa.

Song song đó, vấn đề cấp nước sinh hoạt cho vùng ven biển cần phải được đầu tư thích đáng cho vùng này để giảm việc khai thác nước ngầm làm cho đồng bằng ngày càng sụt lún nhanh trong bối cảnh nước biển dâng.

(*) Chuyên gia độc lập về hệ sinh thái ĐBSCL.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới