Thứ Năm, 28/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Doanh nghiệp Việt cần làm gì để tận dụng lợi thế từ FTA?

Hùng Lê

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) do Việt Nam ký với các nước và khu vực có hiệu lực. Đây được cho là cơ hội để doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế quan nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2023 được nhận định sẽ rất khó khăn.

Doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế quan từ các FTA

Chế biến thuỷ sản xuất khẩu tại một doanh nghiệp. Ảnh minh hoạ: Trung Chánh

Vào những ngày cận Tết nguyên đán, tại cảng Phước Long – ICD Transimex (thành phố Thủ Đức, TPHCM) hàng tấn cà phê, hạt tiêu, hoa hồi, quế, hạt điều… đã được Công ty cổ phần Phúc Sinh chất đầy khoảng 50 container để xuất khẩu sang 10 quốc gia ở châu Âu, Mỹ, Trung Đông… Trong số này có những thị trường mà Việt Nam đã ký kết FTA nên được ưu đãi thuế quan.

Ông Phan Minh Thông, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phúc Sinh, nhận định thị trường xuất khẩu năm nay sẽ khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhóm mặt hàng thực phẩm vẫn là điểm sáng trong năm 2023, đặc biệt là ở các thị trường mà Việt Nam đã ký kết FTA. Nhờ FTA, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam được miễn hoặc giảm thuế quan đáng kể nên có thể cạnh tranh với hàng hóa các nước khác.

Cũng theo doanh nhân này, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đã giúp các mặt hàng nông sản chế biến xuất khẩu sang các châu Âu   được giảm thuế, nhờ đó doanh số xuất khẩu của Phúc Sinh sang thị trường này cũng tăng lên đáng kể. Năm 2020, công ty xuất khẩu sang châu Âu khoảng 50 triệu đô la Mỹ, đến năm 2021 tăng lên 63 triệu đô la, tức tăng trưởng 26% và tiếp tục tăng khoảng 30% trong năm vừa qua.

Ngoài lợi ích cho xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được hưởng lợi từ EVFTA. Điều này giúp các doanh nghiệp tự tin hơn trong việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa mặt hàng để cạnh tranh với nhiều nước trên thế giới.

Cũng theo thông tin từ Phúc Sinh, nhờ Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) mà thuế suất nhập khẩu hạt tiêu từ Indonesia vào Việt Nam về mức 0%, giúp việc kinh doanh hạt tiêu của công ty thuận lợi hơn. Trong mảng mua hạt tiêu của Indonesia để bán lại cho các khách hàng châu Âu và Mỹ, công ty đã có được lợi thế rất lớn khi cạnh tranh với doanh nghiệp từ Hà Lan, Đức… nhờ thuế mức thuế này.

Ông Nguyễn Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty Nông nghiệp công nghệ cao Trung An cũng cho biết những thông tin tương tự. Theo đó, EVFTA được thực thi đã mang lại cơ hội cạnh tranh sòng phẳng cho gạo Việt Nam về giá tại châu Âu. Trước đó, để vào thị trường này, hạt gạo phải chịu mức thuế nhập khẩu rất cao, từ 5-45%, có khi nhà nhập khẩu gạo từ Việt Nam phải đóng thuế từ 100-200 euro/tấn nên rất khó cạnh tranh với gạo của các nước khác như Campuchia, Lào, Myanmar, vốn được đặc cách miễn thuế.

Đến nay, Trung An đã xuất khẩu gạo mang thương hiệu riêng vào châu Âu và bán với mức giá ngang bằng với giá gạo của Thái Lan. Ông An tin tưởng, gạo Việt Nam sẽ có cơ hội nhiều hơn nữa ở thị trường châu Âu trong thời gian tới.

Với các lĩnh vực da giày, rau quả, thủy sản… doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam cũng có thêm lợi thế cạnh tranh đáng kể khi hiệp định EVFTA có hiệu lực.

Theo Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam, xuất khẩu da giày của Việt Nam sang các thị trường có hiệp định thương mại tự do như khu vực EVFTA trong năm qua tăng đến 50,7%; xuất khẩu vào các thị trường CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), UKVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh và Bắc Ireland) và ASEAN cũng tăng trưởng mạnh, lần lượt là 46,1%, 41,3% và 64,9%.

Với thủy sản, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong năm qua, khu vực EU nhập khẩu của Việt Nam 1,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 21% so với năm 2021. Ở nhóm hàng thuỷ sản, gồm cá tra và sản phẩm khác, nếu không có Hiệp định EVFTA thì mức thuế suất ở mức 20%. Tuy nhiên, cam kết từ EVFTA đã giúp xoá bỏ thuế với 86,5% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 3 năm; xoá 90,3% kim ngạch trong 5 năm và 100% trong 7 năm.

Nhiều doanh nghiệp dệt may đang tận dụng ưu đãi các FTA để xuất khẩu hàng hóa. Ảnh minh họa: TL

Theo khảo sát gần đây của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có 4/10 doanh nghiệp Việt Nam đã từng hưởng lợi từ EVFTA. Điều này cho thấy, những nỗ lực cao của các cơ quan quản lý ở cấp trung ương và địa phương, các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp trong suốt thời gian qua đã “đơm hoa kết trái”.

Dư địa thị trường từ các FTA còn rất lớn, nhưng …

Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, năm 2023, nền kinh tế toàn cầu có thể còn ảm đạm hơn năm 2022. Diễn biến thực tế vào những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023 cũng cho thấy, đây là giai đoạn rất khó khăn của nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, đáng chú ý là doanh nghiệp trong ngành giày dép, dệt may, sản phẩm gỗ, điện tử vốn đang bị sụt giảm mạnh đơn hàng nên phải thu hẹp sản xuất và cắt giảm lao động.

Theo Bộ Công thương, tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ còn tiếp tục trong năm 2023 nên còn ảnh hưởng đến các nước. Theo đó, nhiều thị trường lớn của Việt Nam như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… giảm sức mua nên các đối tác sẽ giảm đơn hàng. Vì thế doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa.

Nhiều chuyên gia cho rằng, trước tình hình khó khăn này, thay vì tập trung thị trường truyền thống thì doanh nghiệp nên khai thác các thị trường mới, thị trường ngách… để có đơn hàng sản xuất mới. Đặc biệt là cần khai thác những thị trường mà Việt Nam ký kết các FTA có hiệu lực để tận dụng ưu đãi về thuế quan.

Ảnh minh họa: TL

Với ngành dệt may, theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, việc các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực là động lực thúc đẩy chuyển dịch đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, giúp doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường và sản phẩm.

Đáng chú ý, từ năm nay, ngành dệt may sẽ tiếp tục được hưởng lợi do các sản phẩm dệt may sẽ được giảm thuế xuất khẩu vào thị trường EU nhờ Hiệp định EVFTA. Trong đóp, các loại hàng may mặc bao gồm B3, B5, B7 sẽ được giảm 2-4% thuế xuất khẩu.

Lợi ích của các hiệp định thương mại tự do với việc kinh doanh của doanh nghiệp đã thể hiện rất rõ nét. Tuy nhiên, để nhận được những ưu đãi thuế quan, phía Việt Nam cũng phải đáp ứng những điều kiện về tỷ lệ nội địa hóa, xuất xứ trong sản phẩm. Vì thế, doanh nghiệp cần phải làm rất nhiều việc thì mới có thể tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại này.

Với ngành nông nghiệp như rau quả, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Vina T&T Group, chia sẻ việc xuất khẩu rau quả vào các thị trường FTA, vấn đề thuế quan chỉ là một phần. Hiện vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam đang vướng đó chính là các hàng rào kỹ thuật. Để có thể tham gia sâu vào các thị trường, doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ nghiêm các cam kết, tiêu chuẩn chất lượng.

Như với thị trường EU, một thị trường “có vẽ dễ ăn” vì hàng hóa xuất khẩu vào đây  không phải trải qua quá trình đàm phán như một số thị trường khác. EU cho phép nhập khẩu tất cả các loại trái cây. Tuy nhiên, thị trường này lại kiểm soát rất chặt chẽ hơn 30 chỉ tiêu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật các loại. Chỉ cần 1 lô hàng bị phát hiện dư lượng vượt quá ngưỡng cho phép thì toàn bộ lô hàng sẽ bị trả về hoặc tiêu hủy và mặt hàng đó sẽ bị dừng nhập khẩu.

Với thủy sản, một trong những lực cản lớn nhất tại thị trường EU thời gian qua chính là cảnh báo “thẻ vàng” về khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Ngoài EU, nhiều thị trường khác cũng bắt đầu áp dụng truy xuất nguồn gốc thủy hải sản khai thác.

Bên cạnh những thuận lợi mà các FTA mang lại, doanh nghiệp cũng đang phải đối diện với nhiều quy định phi thuế quan ngặt nghèo hơn từ các thị trường FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA. Đáng chú ý là các đối tác FTA ngày càng đẩy mạnh việc thực thi và giám sát các vấn đề về môi trường, khí hậu, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững buộc các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường có tham gia các FTA phải gia tăng các giải pháp thích ứng các thách thức này.

Trên thực tế mặc dù đã đạt được những kết quả ban đầu nhưng việc tận dụng về các FTA của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đơn cử như với Hiệp định EVFTA, theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, sau 2 năm thực thi thì lợi ích mà doanh nghiệp Việt Nam thu về chưa xứng với tiềm năng bởi thương hiệu Việt Nam chưa được xây dựng hoặc chưa được biết đến nhiều tại các nước châu Âu.

Như với mặt hàng rau quả tươi và rau củ quả chế biến, Thứ trưởng Khánh cho biết, EVFTA đã đưa thuế suất ở cao nhất là 20% về mức 0% tỷ lệ mặt hàng rau quả tươi, rau quả chế biến Việt Nam xuất khẩu vào EU hiện mới chiếm khoảng 2,7% thị phần. Tương tự, với nhóm mặt hàng thuỷ sản (cá tra và sản phẩm khác), tỷ lệ xuất khẩu của Việt Nam sang EU mới chiếm khoảng 4,2% thị phần.

Trái bưởi Việt Nam cũng đã xuất khẩu đi các thị trường có FTA với Việt Nam. Ảnh minh họa: TL

Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên thuộc Bộ Công Thương, dù giá trị xuất khẩu sang các thị trường có FTA mới như EU, Anh, Canada, Mexico tăng trưởng tốt nhưng tỷ trọng của các thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa tăng. Tỷ lệ tận dụng các FTA cũng rất thấp. Cụ thể, tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong EVFTA là 20%, UKVFTA là hơn 22% và CPTPP mới chỉ là 6%.

Theo đó, có rất nhiều yếu tố cản trở doanh nghiệp tận dụng ưu đãi từ các FTA. Kết quả khảo sát của Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam năm 2022 cho thấy hơn 46% số doanh nghiệp được hỏi cho biết gặp trở ngại về năng lực cạnh tranh, hơn 40% doanh nghiệp thiếu thông tin cụ thể về các cam kết và cách thức áp dụng FTA; gần 47% doanh nghiệp lo ngại các yếu tố biến động của thị trường.

Phân tích kỹ hơn về năng lực đáp ứng của doanh nghiệp, bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho rằng để được hưởng các ưu đãi thuế quan trong EVFTA, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng các quy định về xuất xứ. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tỏ ra lúng túng khi xử lý hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) thậm chí còn thiếu kiến thức và năng lực thay đổi sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu đưa ra từ phía khách hàng EU.

Một điểm yếu khác mà doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành nông lâm thủy sản Việt Nam nhận thấy chính là tỷ lệ hàng xuất khẩu được chế biến sâu và có thương hiệu còn rất thấp.

Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, cho rằng doanh nghiệp Việt chưa tận dụng hết cơ hội khi xuất khẩu sang các thị trường lớn có FTA như EU, Mỹ vì hầu hết sản phẩm được xuất thô hoặc sơ chế, gia công cho thương hiệu nước ngoài khiến hàng Việt chưa được nhiều người tiêu dùng nhận diện. Thêm vào đó, doanh nghiệp Việt cũng chậm thay đổi để thích ứng và tận dụng các cơ hội, ưu đãi.

Để tận dụng được những lợi thế mà các FTA mang lại, ông Thông của Phúc Sinh Group cho rằng, các doanh nghiệp phải luôn cập nhật những thông tin mới, hướng dẫn, đào tạo đội ngũ nhân viên tiếp cận và tận dụng FTA một cách triệt để.

Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng nên bám sát thông tin, hướng dẫn từ các cơ quan chức năng để chủ động đáp ứng các thay đổi thương mại của quốc tế. Ngoài ra, doanh nghiệp cần sẵn sàng cải tiến sản phẩm, quy trình để đáp ứng quy định của các thị trường quốc tế và đủ tiêu chuẩn để hưởng lợi từ các FTA.

  • Chủ đề :
  • FTA

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới