Thứ hai, 23/12/2024
27 C
Ho Chi Minh City

Giao kết hợp đồng lao động làm việc bán thời gian

Đỗ Thục Đoan Nghi - Lê Thị Hoa

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - LTS: Làm việc bán thời gian (part time) là phương thức lao động đã rất phổ biến. Những năm gần đây lại nổi lên nhu cầu của nhiều người lao động (NLĐ) thích làm việc tự do (freelancer), nhất là với thế hệ gen Z. Thực tế có không ít người bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm, cũng như không chắc chắn về nội dung các quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động làm việc bán thời gian hay làm việc tự do hiện đã được pháp luật lao động quy định như thế nào, mức độ bảo vệ NLĐ đến đâu.

Trong xu hướng ngày càng có nhiều NLĐ chuộng làm việc bán thời gian hoặc làm việc tự do, Kinh tế Sài Gòn mong muốn giới thiệu nhiều hơn những bài viết liên quan nhóm NLĐ này, mong nhận được sự ủng hộ của bạn đọc và mong nhận được nhiều bài viết cộng tác.

Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết từ Công ty Luật Phuoc & Partners.

Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa hai loại hình làm việc bán thời gian và làm việc tự do chính là thời gian bắt buộc để thực hiện mỗi công việc hay dự án.

Đối với việc làm bán thời gian, doanh nghiệp có thể chỉ thuê người lao động làm việc 4 tiếng/ngày cho một vị trí công việc nào đó và người làm công việc này chỉ cần làm đúng 4 tiếng/ngày để nhận số tiền công trên cơ sở thời gian làm việc đó.

Còn đối với thể loại làm việc tự do, thông thường, công ty sẽ giao một dự án (hay công việc) cùng với thời hạn thực hiện; NLĐ hoàn toàn có thể chủ động thời gian làm việc, miễn sao hoàn thành công việc đúng hạn, và do vậy, họ có thể nhận làm nhiều việc trong cùng quỹ thời gian của mình.

Hiện nay, rất nhiều NLĐ làm những công việc có tính linh hoạt về thời gian hoặc có thể làm việc từ xa, thì ngoài thời gian làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) chính ký với một người sử dụng lao động (NSDLĐ) nào đó, họ còn gia tăng thu nhập bằng cách nhận làm thêm các công việc, dự án khác.

Một trong những ví dụ điển hình dễ thấy của công việc bán thời gian là việc phục vụ bàn tiệc tại nhà hàng. Thay vì phải tuyển và đào tạo một đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp, nhiều nhà hàng thường tuyển học sinh/sinh viên làm việc 5-6 tiếng cho một buổi tiệc. Tuy nhiên, do là loại công việc ngắn hạn, theo mùa, nên các nhà hàng thường chỉ cử người thỏa thuận bằng lời nói với người làm việc.

Trên thực tế đã có nhiều trường hợp học sinh/sinh viên sau khi kết thúc phục vụ bữa tiệc nhưng không được thanh toán tiền công như được thỏa thuận trước đó. Hầu hết các em gặp trường hợp như vậy đều im lặng chịu đựng cho qua do không hiểu rõ công việc của mình được pháp luật điều chỉnh ra sao, quyền lợi của bản thân là gì khi làm những công việc đó.

Giao kết HĐLĐ làm việc bán thời gian trong mọi hoàn cảnh

Thực tế cho thấy nhiều người trẻ làm việc bán thời gian nhưng không thực sự quan tâm đến quyền lợi của bản thân trừ tiền công, tiền lương, thậm chí họ không được giao kết HĐLĐ.

Mặc dù pháp luật lao động chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về làm việc bán thời gian nhưng xét về câu chữ cũng như phân tích bản chất công việc, có thể thấy làm việc bán thời gian tương thích với hình thức “làm việc không trọn thời gian” trong pháp luật lao động.

Theo điều 32.1 Bộ luật Lao động (BLLĐ), “người lao động làm việc không trọn thời gian là người lao động có thời gian làm việc ngắn hơn so với thời gian làm việc bình thường theo ngày hoặc theo tuần hoặc theo tháng được quy định trong pháp luật về lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động”.

Theo điều 20.1 BLLĐ, hiện có hai loại HĐLĐ: (i) HĐLĐ không xác định thời hạn là hợp đồng hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực hợp đồng; (ii) HĐLĐ xác định thời hạn là hợp đồng hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng không quá 36 tháng. Và hiện cũng không có bất kỳ quy định nào ràng buộc người làm công việc bán thời gian phải ký loại hợp đồng nào.

Do vậy, tùy theo tính chất công việc cũng như sự thỏa thuận, NLĐ và NSDLĐ có thể lựa chọn một trong hai loại HĐLĐ nêu trên. Nhưng cần lưu ý nếu NLĐ chỉ thực hiện công việc dưới một tháng thì theo điều 14.2 BLLĐ, các bên có thể giao kết HĐLĐ xác định thời hạn dưới một tháng thông qua lời nói, trừ một số trường hợp pháp luật lao động bắt buộc giao kết bằng văn bản, ví dụ như giao kết HĐLĐ với người chưa đủ 15 tuổi…

Việc xác định đúng bản chất công việc rất quan trọng, bởi lẽ, người làm việc tự do thường giao kết hợp đồng dịch vụ (hay hợp đồng cộng tác viên) bằng văn bản (nếu là công việc có tính chuyên nghiệp cao) hoặc bằng lời nói hoặc dữ liệu điện tử. Do đó, quyền và nghĩa vụ chính trong quan hệ giữa các bên được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự và giữa họ không phát sinh quan hệ lao động. Còn đối với công việc bán thời gian, NSDLĐ phải giao kết HĐLĐ với NLĐ trong mọi hoàn cảnh.

Quyền và nghĩa vụ của các bên

Với bản chất là quan hệ lao động và được ràng buộc bởi pháp luật về lao động, sẽ không có sự phân biệt giữa lao động bán thời gian và lao động toàn thời gian. Cũng theo điều 32 BLLĐ, NLĐ làm việc bán thời gian vẫn được hưởng các chế độ như những NLĐ khác trong mối quan hệ lao động, bao gồm: được hưởng lương, bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, bình đẳng về cơ hội, không bị phân biệt đối xử, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.

Về nguyên tắc, NLĐ làm việc bán thời gian vẫn được hưởng các quyền như đối với NLĐ làm việc trọn thời gian, bao gồm cả vấn đề bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, một trong những điều kiện cần để NLĐ đủ điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội là họ phải là người làm việc theo HĐLĐ từ đủ một tháng(1). Thêm nữa, nếu thời gian không làm việc và không hưởng lương trên 14 ngày/tháng thì cũng không đủ điều kiện được đóng bảo hiểm tháng đó(2).

Thực tiễn cho thấy nhiều công việc mang tên là công việc bán thời gian nhưng NLĐ phải bỏ ra nhiều hơn số giờ họ được trả công để hoàn thành, tức mang danh là làm công việc bán thời gian nhưng NLĐ lại thực hiện như một công việc tự do. Do pháp luật hiện hành chưa có quy định nào điều chỉnh vấn đề này nên NLĐ chỉ có thể nâng cao hiểu biết pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong quá trình thương lượng với NSDLĐ.

Ngược lại, hiện có nhiều công việc bán thời gian được thực hiện từ xa nên NSDLĐ khó có thể kiểm soát hiệu suất làm việc của NLĐ để có sự định lượng hợp lý số giờ làm việc cùng số tiền lương phải trả ngay khi giao kết hợp đồng.

Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, pháp luật luôn có khuynh hướng bảo vệ NLĐ hơn, nên để tránh bị NLĐ khởi kiện tại tòa án, NSDLĐ cần tuân thủ quy định của pháp luật về lao động, đảm bảo thời giờ làm việc như thỏa thuận, không ép NLĐ hoàn thành công việc vượt ngoài thời giờ làm việc trừ khi có thể chứng minh được hiệu suất làm việc của NLĐ là thấp.

Rủi ro cho doanh nghiệp nếu không ký kết HĐLĐ

Hiện nay, theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính, nếu doanh nghiệp sử dụng NLĐ có công việc trên một tháng mà không giao kết HĐLĐ bằng văn bản thì sẽ phải chịu phạt từ 4.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng(3). Bên cạnh đó, NLĐ cũng hoàn toàn có quyền khởi kiện doanh nghiệp vì đã vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ lao động. Và nếu để dẫn đến tranh chấp kéo dài, doanh nghiệp sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và cả tiền bạc.

(1)Điều 2.1 Luật Bảo hiểm xã hội 2014

(2)Điều 85.3 Luật Bảo hiểm xã hội 2014

(3)Điều 6.1 và 9.1 Nghị định 12/2022/NĐ-CP

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới