Gỡ 'nút thắt' xung đột lợi ích và liên kết quản trị công ty
Trương Trọng Hiểu(*)
(TBKTSG) - Ngày càng có nhiều cuộc tranh cãi, bất đồng trong nội bộ công ty, nhất là các mâu thuẫn giữa cổ đông quản lý và cổ đông thường mà vụ việc ở Coteccons là một ví dụ. Những câu chuyện này thường được lý giải qua các minh chứng về xung đột lợi ích giữa các bên, nhất là khi thành viên quản lý của công ty này đồng thời là thành viên quản lý của công ty có lợi ích xung đột khác.
Việc ra tòa để giải quyết xung đột là cách chọn sòng phẳng, tuy nhiên, sẽ tốt hơn nhiều nếu các bên có thể tránh được nguy cơ dẫn đến tranh chấp ngay từ ban đầu.
Từ mâu thuẫn Coteccons và Kusto, nhìn lại quyền cổ đông khi có tranh chấp nội bộ
Luật Doanh nghiệp năm 2014 mở rộng cơ chế nhiều người đại diện cho cả công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (2). Quy định cấm giám đốc công ty cổ phần đồng thời là giám đốc của doanh nghiệp khác được nhắc đến trong Luật Doanh nghiệp 2005 cũng được gỡ bỏ. Thậm chí, luật còn khẳng định thành viên HĐQT của công ty cổ phần có thể đồng thời là thành viên HĐQT của công ty cổ phần khác. Quy định này hiện nay cũng được nhắc lại trong dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi.
Tựu trung, tiếp cận hiện tại của luật đã mở ra cánh cửa hình thành nên cơ chế liên kết quản trị giữa các công ty (interlocking directorates). Cơ chế này ít nhiều tạo thêm chất xúc tác cho câu chuyện “xung đột lợi ích” vốn đã rất phức tạp.
Vì vậy, chế định trách nhiệm người quản lý công ty được xây dựng và phát triển cũng nhằm để kiềm chế những mối nguy đó. So với phiên bản Luật Công ty đầu tiên, chế định này ở phiên bản luật hiện tại đã hoàn thiện hơn nhiều. Luật Doanh nghiệp hiện tại đặt ra trách nhiệm cẩn trọng, trung thành, trung thực, và vì lợi ích của doanh nghiệp.
Đây là quy định làm cơ sở cho việc giải quyết nhiều vướng mắc, như việc cổ đông quản lý nắm lợi thế thông tin trong việc thâu tóm hoặc bán tháo cổ phần, ký kết hợp đồng nợ, và thậm chí là cả các tình huống để công ty bị thâu tóm ngoài ý muốn.
Dù vậy, hiện thực hóa chế định này là việc không dễ. Không riêng gì Việt Nam, nhiều nước có lịch sử pháp luật công ty lâu đời cũng thường chứng chiến những sự vụ tranh tối tranh sáng. Cách thức tiếp cận trách nhiệm của người quản lý theo đó sẽ phản ánh mô hình lý thuyết mà pháp luật công ty của một quốc gia đang theo đuổi.
Với mô hình thiên về bảo vệ người quản lý (director primacy model), việc thực hiện các giao dịch có xung đột lợi ích không mặc nhiên được xem là vi phạm nếu nó diễn ra đúng quy trình, đảm bảo đúng tỷ lệ, thậm chí là đã chấp nhận hạn chế, biểu quyết.
Ngược lại, mô hình ưu tiên lợi ích của cổ đông (shareholder primacy model) đòi hỏi người quản lý trong các trường hợp phải lấy lợi ích của cổ đông làm đầu và đặt quyền lợi của chính mình làm thứ yếu. Các hoạt động của người quản lý làm ảnh hưởng đến lợi ích của cổ đông vì vậy đều không được chấp nhận.
Không có một mô hình lý thuyết nào ở trên được thể hiện rõ nét trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Quy định hiện thời đang đặt ra yêu cầu người quản lý hành động vì lợi ích của… doanh nghiệp như đã nói. Một số nước thực ra cũng lựa chọn lợi ích của công ty thay vì lợi ích của cổ đông để đánh giá hành động của ban quản trị.
Nhưng dù gì thì ngoài việc chứng minh vi phạm của người quản lý, tiếp cận về mặt lý luận cũng có sự dao động trong lựa chọn phương án giải quyết hậu quả. Điển hình, với trường hợp người quản lý có các hoạt động hay ký hợp đồng mang nợ về công ty, có quan điểm cho rằng không công nhận giao dịch hay kiện đòi bên thụ hưởng là lựa chọn khả dĩ.
Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng việc truy đòi người quản lý mới là giải pháp hợp lý. Đặc biệt là trong các quyết định dẫn đến doanh nghiệp bị thâu tóm, việc đặt ra trách nhiệm của những người quản lý còn lại cùng tham gia biểu quyết cũng được đặt ra.
Nhưng có lẽ, sẽ ý nghĩa hơn nếu rủi ro có thể tạo ra các giao dịch có xung đột về mặt lợi ích được phòng ngừa từ sớm. Tựu trung, các nước thường yêu cầu người quản lý phải có được sự phê duyệt của cổ đông trong các tình huống này, ngay cả với một số quốc gia tiếp tục duy trì các quy tắc bảo đảm tính trung lập cho ban quản trị (board neutrality rules). Tương tự, Luật Doanh nghiệp hiện cũng đòi hỏi người quản lý công ty (cổ phần) phải có ý kiến của HĐQT hoặc thậm chí là phải có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông (điều 162 Luật Doanh nghiệp).
Rõ ràng, mức độ căng thẳng sẽ tăng nếu cơ chế liên kết quản trị xuất hiện giữa các công ty là đối thủ cạnh tranh. Các chế định của pháp luật công ty vừa nêu ở trên cũng khó có thể lường hết rủi ro và hậu quả phải xử lý. Nhiều nước vì vậy dùng pháp luật cạnh tranh và cơ chế kiểm soát các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) để giải quyết.
Điển hình, Ủy ban châu Âu cũng đã xác định mối liên hệ quản lý chéo là một trong những yếu tố cần phải xem xét khi đánh giá tác động của các vụ sáp nhập. Thực tế, trong vụ sáp nhập giữa Nestlé (Thụy Sỹ) và Perrier (Pháp) năm 1992, vì sức tác động của thương vụ đến cạnh tranh trên thị trường quá lớn, Ủy ban châu Âu yêu cầu hai công ty phải bán một phần tài sản của mình cho một bên thứ ba khác như một biện pháp khắc phục.
Đương nhiên, bên mua lại phần tài sản này sẽ là đối thủ cạnh tranh của cả Nestlé và Perrier nên yêu cầu được đặt ra là công ty đó không được có mối liên hệ về mặt cấu trúc, tài chính lẫn bộ máy quản lý với hai công ty trên và cả công ty mẹ, công ty con của hai công ty này.
Mỹ, Nhật Bản và hầu hết các quốc gia có tiếp nhận biện pháp khắc phục sáp nhập đều sử dụng các điều kiện này.
Đặc biệt, Nhật Bản còn xem liên kết quản trị là một dạng liên kết kinh doanh và kiểm soát chung với các hình thức sáp nhập công ty khác. Theo Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản, một liên kết quản trị nằm trong phạm vi tầm soát nếu người quản lý, hay lao động, của công ty này nắm giữ phần lớn các vị trí quản lý trong công ty khác, hoặc họ đóng vai trò đại diện pháp lý cho cả hai công ty.
Ngoài ra, cơ quan này cũng có thể đánh giá mức độ liên kết quản trị giữa các công ty qua mối liên kết tài chính, thương mại và sở hữu chéo.
Nhưng ngược lại, điều này cũng cho thấy một liên kết quản trị cũng có thể được xem là chưa đến mức có tác động xấu đến cạnh tranh và bị cấm. Trong thương vụ Oji Holdings mua lại Chuetsu Pulp & Paper vào năm 2014, Nhật Bản đã đưa ra đánh giá về mối liên kết quả trị nhưng cuối cùng đã phê duyệt thương vụ với lý do Oji Holdings chỉ nắm giữ 20% quyền biểu quyết tại Chuetsu Pulp & Paper.
Đặc biệt, người quản lý đóng vai trò “kép” giữa hai công ty chỉ giới hạn một người, và là giám đốc ngoài (external director). Các bên, để được phê duyệt thương vụ, cũng cam kết là sẽ không chia sẻ thông tin lẫn nhau.
Có điều, tiếp cận tương tự chưa xuất hiện trong pháp luật về kiểm soát sáp nhập ở Việt Nam.
(*)Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐHQG TPHCM).
(2)Đây là mô hình đã và đang áp dụng cho Công ty hợp danh. Theo đó, tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật của công ty.