Chủ Nhật, 14/09/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Hiệu lực văn bản thuế thời số hóa: Xin đừng gấp gáp!

Thái Mạnh Cường

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG) - Tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong kê khai và nộp thuế, tuy nhiên, ngành thuế cũng tạo những “cú sốc” cho người nộp thuế khi ban hành các quy định có hiệu lực gấp gáp, khiến nhiều đơn vị không kịp trở tay.

Ngành thuế là ngành dẫn đầu về hiện đại hóa và chuyển đổi số. Lần lượt 99% và 98% doanh nghiệp đã khai thuế điện tử và nộp thuế điện tử (1). Hóa đơn điện tử cũng đã thay thế hóa đơn giấy từ ngày 1-7-2022. Tuy nhiên, chính vì mức độ điện tử hóa cao như vậy, việc tuân thủ các quy định mới về thuế cần có thời gian chuẩn bị nhất định về mặt công nghệ.

Nhiều văn bản hiệu lực gấp gáp

Trong thời gian vừa qua, cộng đồng người nộp thuế đã trải qua nhiều phen náo loạn vì các quy định có hiệu lực gấp gáp. Năm 2022, Nghị định 15/2022/NĐ-CP quy định về giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) được ban hành ngày 28-1-2022, có hiệu lực luôn vào ngày 1-2-2022, tức chỉ ba ngày sau đó. Đáng nói là, giai đoạn từ ngày 31-1 đến 4-2-2022 là kỳ nghỉ Tết Nguyên đán.

Nghị định 15 có ba phụ lục quy định hàng hóa, dịch vụ không được giảm thuế GTGT theo mã ngành sản phẩm. Điều này khiến nhiều kế toán năm đó đã “ăn Tết không ngon” vì phải nghiên cứu quy định ngay trong Tết, kịp thời triển khai ngay ngày đầu trở lại làm việc. Giảm thuế 2% tức là thay đổi thuế suất từ 10% xuống 8%, buộc các đơn vị phải chỉnh sửa phần mềm bán hàng (tính tiền) và kế toán trong thời gian vô cùng ngắn.

Nghị định 15 còn có yêu cầu bất hợp lý là phải lập riêng hóa đơn cho hàng giảm thuế (khiến nhiều doanh nghiệp phải tăng gấp đôi số hóa đơn), buộc Chính phủ phải ban hành nghị định để sửa đổi sau đó. Nếu như Nghị định 15 dành thời gian hợp lý để các đơn vị nghiên cứu và chuẩn bị, có lẽ việc giảm thuế GTGT đã suôn sẻ hơn và hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn.

Hiệu lực một cách gấp gáp khiến việc tuân thủ trở nên “bất khả thi” là điều cấm kỵ trong ban hành quy định pháp luật. Các trường hợp áp dụng ngay chỉ nên thực hiện khi vì lợi ích của người dân, doanh nghiệp chứ không nên vì mục tiêu quản lý nhà nước.

Gần đây hơn, ngày 31-5-2025, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 32/2025/TT-BTC quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử - có hiệu lực ngay vào ngày tiếp theo là 1-6-2025. Cục Thuế có công điện triển khai gấp gửi các chi cục thuế để triển khai thông tư này. Đến vài ngày sau, bản chính thức của thông tư này mới được công bố, có một số nội dung quan trọng không còn giống với nội dung bản “nháp” trước đó và nội dung công điện.

Báo Thanh Niên đã gọi đây là tình huống “ngã ngửa” (2), thể hiện sự bất ngờ về thay đổi cả sau khi văn bản đã có hiệu lực. Bên cạnh đó, quy định về thành phần dữ liệu hóa đơn, một văn bản quan trọng để các đơn vị chỉnh sửa các phần mềm hóa đơn, cũng chỉ được ban hành vào ngày 30-5-2025.

Nhiều doanh nghiệp tự triển khai phần mềm hóa đơn (không sử dụng phần mềm của các công ty công nghệ) đã không kịp xoay xở chỉnh sửa hóa đơn cho đúng quy định mới. Đặc biệt, các tập đoàn lớn có vốn nhà nước còn cần có thời gian nhất định để xây dựng hồ sơ mời thầu và triển khai lựa chọn nhà thầu mới có thể tiến hành chỉnh sửa hệ thống công nghệ.

Tới đây, Luật Thuế GTGT năm 2024 sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-2025, trong đó có nhiều nội dung quan trọng giao cho Chính phủ quy định chi tiết (ví dụ như đối tượng không chịu thuế, điều kiện áp dụng thuế 0%, điều kiện khấu trừ thuế...). Cộng đồng kế toán đang lo lắng khi nghị định quy định chi tiết của Chính phủ vẫn chưa được ban hành dù chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là luật có hiệu lực.

Nhiều hệ lụy cho doanh nghiệp

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và 2025, văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương không được có hiệu lực sớm hơn 45 ngày kể từ ngày ban hành, trừ trường hợp ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Cũng theo luật này, trình tự, thủ tục rút gọn chủ yếu áp dụng cho các tình huống khẩn cấp, cấp bách, cần triển khai ngay. Như vậy, có thể thấy luật đã quy định chung về thời gian tối thiểu cho người dân, doanh nghiệp nghiên cứu, triển khai các quy định. Bởi lẽ, cần có thời gian để có thể biết đến và chuẩn bị (về nhiều mặt) cho việc tuân thủ quy định.

Hiệu lực một cách gấp gáp khiến việc tuân thủ trở nên “bất khả thi” là điều cấm kỵ trong ban hành quy định pháp luật. Các trường hợp áp dụng ngay chỉ nên thực hiện khi vì lợi ích của người dân, doanh nghiệp chứ không nên vì mục tiêu quản lý nhà nước.

Đặc thù của thuế GTGT là thuế gián thu, tức là cơ sở kinh doanh chỉ thu và nộp thay cho người tiêu dùng cuối cùng. Nếu xác định sai thuế và thu sai thuế trong giá bán, cơ sở kinh doanh hầu như không có cơ hội để sửa sai (ví dụ như rất khó có thể yêu cầu người mua vãng lai quay lại và trả thêm tiền).

Tương tự, hóa đơn phải lập và giao ngay cho khách hàng khi bán hàng, đồng thời chuyển luôn dữ liệu hóa đơn cho cơ quan thuế. Như vậy, nếu hóa đơn bị sai thuế suất hoặc thiếu thông tin bắt buộc hoặc sai định dạng, doanh nghiệp buộc phải lập hóa đơn thay thế/điều chỉnh. Số lượng hóa đơn tăng lên gấp đôi, kéo theo chi phí về dịch vụ truyền gửi và hạ tầng.

Các vi phạm về thuế và hóa đơn đều có mức xử phạt nặng. Với thuế, khai sai thuế, tùy từng mức độ, có thể bị phạt 20% tiền thuế thiếu và 1-3 lần tiền thuế trốn, thậm chí có thể bị xử lý hình sự.

Với hóa đơn, tiền phạt vi phạm được nhân theo số lượng hóa đơn, mức phạt chỉ vài triệu nhưng nhân với 1.000 hóa đơn đã thành tiền tỉ. Quy định xử phạt như vậy khiến nhiều người cảm thấy lo lắng trước các văn bản mới, thận trọng đến mức phải tạm dừng kinh doanh để theo dõi tình hình.

Một số đề xuất

Thứ nhất, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có bổ sung các nghĩa vụ tuân thủ cần được nghiên cứu để loại trừ khỏi các trường hợp được áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn. Điều này giúp cho người dân, doanh nghiệp không bị đẩy vào thế khó và đối mặt với nguy cơ bị xử phạt dù không cố ý vi phạm. Đây cũng là một yêu cầu trong xây dựng pháp luật được nêu trong Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Thứ hai, các quy định đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng, chỉnh sửa phần mềm để thực hiện cần phải có “độ trễ” phù hợp. Quy trình phát triển phần mềm thường đòi hỏi trải qua nhiều bước: phân tích yêu cầu, thiết kế hệ thống, lập trình, kiểm thử, đào tạo, triển khai... Đó là chưa tính tới việc phải thuê ngoài dịch vụ nếu không đủ nguồn lực nội bộ, đòi hỏi phải thực hiện quy trình mua sắm, đấu thầu. Chính vì vậy, ngành thuế với mức độ điện tử hóa cao cần phải cho phép doanh nghiệp một thời gian đủ dài để có thể chuẩn bị đầy đủ về mặt công nghệ.

Thứ ba, cần có các chế tài phù hợp để khắc phục tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết. Việc “nợ” văn bản của cấp dưới vừa ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách của văn bản cấp trên, vừa dẫn đến áp lực buộc văn bản cấp dưới phải có hiệu lực ngay khi ban hành. Hệ quả là doanh nghiệp vừa gặp vướng mắc trong thời kỳ “giao thoa” giữa văn bản cũ - mới, vừa không có đủ thời gian chuẩn bị cho tuân thủ quy định mới.

Việc có chế tài đối với cơ quan chủ trì soạn thảo chậm ban hành văn bản là đặc biệt cần thiết, nhất là khi nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này được xác định là “có sự chưa chủ động, chưa cố gắng và chưa lường trước hết được” của các cơ quan (theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội) (3).

----------------------------------

(1) Đặng Ngọc Minh (2025), “Ngành thuế dẫn đầu về cải cách, hiện đại hóa và chuyển đổi số”, Tạp chí Tài chính, https://tapchitaichinh.vn/nganh-thue-dan-dau-ve-cai-cach-hien-dai-hoa-va-chuyen-doi-so.html
(2) Đan Thanh (2025), “‘Ngã ngửa’ với hướng dẫn mới về hóa đơn điện tử của ngành thuế”, Thanh Niên, https://thanhnien.vn/nga-ngua-voi-huong-dan-moi-ve-hoa-don-dien-tu-cua-nganh-thue-185250606180811383.htm
(3) Minh Trang (2023), “Chậm ban hành văn bản chi tiết chủ yếu do nguyên nhân chủ quan”, Đại biểu Nhân dân, https://daibieunhandan.vn/cham-ban-hanh-van-ban-chi-tiet-chu-yeu-do-nguyen-nhan-chu-quan-post349178.html

1 BÌNH LUẬN

  1. Thay vì liên tục tạo ra “DEAD-LINE” cho doanh nghiệp và người dân, ngành thuế nên đặt mình vào vị trí đối tác/ đối phương để hành động nhanh chóng và tốt hơn theo kiểu “TOP-LINE” để kịp thời giải quyết các quyền lợi có liên quan đến họ. Ví dụ khâu hoàn thuế, đơn vị tính thời gian thường là 1/2 hoăc cả năm mới xong ?

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới