Thứ Tư, 25/06/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Học phí đại học và vấn đề giải trình trách nhiệm

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Học phí đại học và vấn đề giải trình trách nhiệm

Phạm Thị Ly (*)

Học phí đại học và vấn đề giải trình trách nhiệm
Sinh viên trường Đại học Bách khoa trong giờ thực hành. Ảnh: Thanh Tao.

(TBKTSG) - Chính sách học phí nói riêng và tài chính đại học nói chung là một trong những vấn đề cốt tử của giáo dục đại học (GDĐH), và tác động sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân cũng như chiến lược phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia.

Nhìn lại chính sách học phí

Trong thực tế, học phí đại học công ở Việt Nam đã gần như giữ nguyên trong 7-8 năm qua bất chấp sự trượt giá của đồng tiền. Ở đại học tư, trong nhiều trường hợp mức học phí cách biệt với trường công chưa phải là quá lớn. Hậu quả nhãn tiền là sự sa sút về chất lượng, do nguồn lực tài chính không đủ để hoạt động, các trường phải tăng cường đào tạo ngoài chính quy, bất chấp tiêu chuẩn chất lượng, dẫn đến một hiện tượng thực tế là xã hội đang phủ nhận giá trị của bằng tại chức.

Phần lớn các nhà quản lý ở các trường đại học Việt Nam đều nhìn thấy nhu cầu thay đổi chính sách học phí là một tất yếu, một đòi hỏi bức bách của thực tiễn. Tuy nhiên nhiều đề án học phí được đưa ra đều gặp sự phản đối của số đông công chúng. Điều đó có phần do số đông công chúng chỉ nhìn vấn đề từ một phía, và những người chủ trương cải cách chính sách học phí chưa có những bằng chứng thuyết phục, dựa trên những tính toán và nghiên cứu nghiêm túc để chứng minh rằng trong những điều kiện  nào thì tăng học phí sẽ dẫn đến tăng chất lượng, và điều này sẽ tác động đến trình độ phát triển chung của nền kinh tế như thế nào, cũng như thiếu các giải pháp đi kèm nhằm bảo đảm công bằng xã hội và công bằng về cơ hội cho mọi người.

Chính vì vậy, bài toán học phí không thể giải quyết một mình mà cần được xem xét trong mối liên hệ với nhiều yếu tố khác, mà vấn đề nổi bật là cơ chế giải trình trách nhiệm. Nếu không cải cách học phí đại học, thì các trường Việt Nam không thể thoát ly cách tổ chức đào tạo hiện nay và sẽ vẫn phải tiếp tục mở rộng hệ tại chức bất chấp tiêu chuẩn chất lượng, vì đó là “nồi cơm” của các trường. Một điều rất vô lý là trong lúc “thị trường giáo dục” đang mở ngỏ cho các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài, với mức thu rất cao, mà chất lượng đào tạo và giá trị bằng cấp còn là một dấu hỏi, thì các trường đại học trong nước đang bị bắt buộc bơi trong phân khúc “học phí thấp - chất lượng thấp”.

Câu hỏi mà công chúng đặt ra là: 1. Liệu học phí cao có bảo đảm chất lượng đào tạo tốt, hay học phí cao chỉ có nghĩa là lợi nhuận cao hơn cho các nhà đầu tư giáo dục? 2. Khả năng hoàn vốn của việc đầu tư cho sự học: bằng cấp này có bảo đảm cho một công việc có thu nhập tốt hơn trong tương lai? Còn câu hỏi của các nhà làm chính sách là nên dành một tỷ lệ ngân sách như thế nào là hợp lý cho GDĐH trong tương quan với giáo dục phổ thông, với những chính sách xã hội và mục tiêu phát triển khác, vì GDĐH vừa là hàng hóa công, cũng vừa là lợi ích tư. Câu hỏi của các nhà quản lý còn là làm cách nào sử dụng tốt nhất nguồn lực hiện có cho GDĐH. Tất cả những câu hỏi đó đều có thể được trả lời thông qua cơ chế giải trình trách nhiệm, là điều hiện vẫn còn ít được lưu ý ở Việt Nam.

Thực tế ra sao?

Hiện nay, học phí hầu như vẫn giữ ở mức khoảng 1,8-2,7 triệu đồng/sinh viên/năm từ thập kỷ 1990 đến nay, mặc dù đồng tiền Việt Nam đã trải qua những đợt trượt giá khá đáng kể. Tổng sản phẩm nội địa (danh nghĩa) bình quân đầu người ở Việt Nam tăng 4,7 lần (năm 1999 là 3,6 triệu đồng/người/năm, năm 2008 là 17 triệu đồng/người/năm). Chỉ số giá cả tiêu dùng tăng gấp hai lần. Thay đổi mức thu học phí trong bối cảnh đó là một giải pháp tất yếu để bảo đảm chất lượng đào tạo.

Mặc dù vậy, đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2008-2012, đã được báo cáo Bộ Chính trị ngày 5-3-2009 và sau khi tiếp tục hoàn chỉnh đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13-5-2009, đã vấp phải sự phản ứng của công luận. Cụ thể vấn đề bị phản ứng nhiều nhất là biên độ dao động khá lớn giữa mức thu cơ bản và mức trần (255.000-800.000 đồng/tháng) và về cam kết chất lượng đào tạo.

Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), “các trường không công khai cam kết chất lượng giáo dục, không công bố đánh giá thực tế chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục, không công bố nguồn lực thực tế của nhà trường phục vụ đào tạo, không công khai tài chính của nhà trường để Nhà nước và người dân dễ dàng kiểm tra, giám sát”. Ngay cả khi thực hiện “ba công khai” (về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự và tài chính) theo yêu cầu của Bộ GD&ĐT, các trường cũng chưa thực sự thuyết phục được công chúng, trong bối cảnh “văn hóa đối phó” lan tràn ở Việt Nam. Xếp hạng và kiểm định chất lượng đang được xem như một phương tiện để thuyết phục lòng tin của công chúng, hơn là một đối sách để cải thiện chất lượng hoạt động.

Có ba thực tế cần phải xem xét khi bàn đến học phí đại học. Một là khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư đang tăng. Một bộ phận người giàu đang hướng đến việc đưa con cái ra nước ngoài du học, bộ phận trung lưu không đủ sức cho con cái du học thì mong muốn có những trường chất lượng tốt với học phí tương xứng, và bộ phận người nghèo mà đối với họ ngay cả mức học phí rất thấp hiện nay cũng đã là một vấn đề lớn. Điều này có nghĩa là hệ thống đại học và học phí cần phải đa dạng và linh hoạt hơn.

Hai là, tâm lý trọng bằng cấp, chuộng hư danh vẫn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì bằng cấp không đi cùng thực học sẽ ngày càng mất giá trị. Xu hướng đòi hỏi thực học sẽ ngày càng mạnh, đi cùng với nó là thái độ chấp nhận mức học phí cao, với điều kiện là nó bảo đảm cho chất lượng cao. Đó là một trong những lý do khiến các trường nước ngoài hoặc các chương trình liên kết nước ngoài tìm được một thị trường đầy tiềm năng ở Việt Nam.

Ba là trong thực tế hiện nay, nhiều trường đại học, nhất là trường tư, đang hoạt động như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giáo dục và đang tạo ra lợi nhuận, mặc dù mức thu học phí hiện tại vẫn còn rất thấp.

Làm sao để xác định chất lượng?

Thực tế đó tạo ra mối quan ngại lớn nhất của công chúng, là học phí tăng liệu có bảo đảm cho chất lượng tương xứng. Nhiều trường đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này bằng kiểm định và xếp hạng. Nhưng trong bối cảnh của “văn hóa đối phó”, trong tâm trạng thiếu lòng tin vào sự chính trực nói chung của xã hội, kiểm định và xếp hạng không phải là một bảo đảm chắc chắn của chất lượng. Chất lượng thật chỉ có thể có khi trường đại học nói riêng, và cả xã hội nói chung, xây dựng được văn hóa chất lượng, mà nền tảng của nó chính là tinh thần trách nhiệm và cơ chế giải trình trách nhiệm.

Từ năm 1990-2010, chỉ trong hai thập kỷ, số trường đại học và cao đẳng của Việt Nam đã tăng từ 106-412 trường (gấp bốn lần), và số sinh viên từ 129.600 người tăng đến 1.719.499 người (gấp 13 lần). Trong lúc số sinh viên tăng 13 lần, số giảng viên chỉ tăng ba lần, còn mức lương cơ bản của giảng viên chỉ tăng 1,87 lần.
Về nguồn lực tài chính, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2006, chi bình quân cho 1 học sinh, sinh viên ở nước ta là 723 đô la Mỹ (quy đổi sức mua tương đương), chỉ bằng 1/4 của Thái Lan (3.170 đô la Mỹ) và Malaysia (3.031 đô la Mỹ ), bằng 1/8 của Hàn Quốc (5.733 đô la Mỹ ), chưa bằng 1/10 của Đức (7.368 đô la Mỹ ), của Nhật (7.789 đô la Mỹ) và chỉ bằng 1/16 của Mỹ (12.023 đô la Mỹ) . Với mức chi cho đào tạo như vậy, thực sự không thể nói đến việc cạnh tranh về chất lượng.

Chất lượng đào tạo thực sự của nhà trường được minh chứng qua sản phẩm của họ: phẩm chất và năng lực của sinh viên tốt nghiệp trong việc thích ứng với xã hội kinh tế tri thức đang thay đổi từng ngày. Đó là những thứ giúp họ trở thành lực lượng dẫn đầu những đổi mới trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, và chính trị của đất nước.

Nhà trường cần phải chứng minh được rằng những sản phẩm này là kết quả của một triết lý và quy trình đào tạo, chứ không phải một thành công đột xuất dựa trên những nỗ lực hay thiên khiếu cá nhân. Việc chứng minh ấy là một quá trình lâu dài, trong quá trình ấy, cơ chế giải trình trách nhiệm vừa là một động lực giúp cải thiện chất lượng hoạt động bên trong, vừa là một phương tiện minh chứng với bên ngoài về chất lượng hoạt động của nhà trường.

Do vậy, không nên nhìn cơ chế giải trình trách nhiệm chỉ đơn giản là công khai báo cáo hàng năm của các trường, mặc dù đó là việc hết sức cần thiết. Chủ trương ba công khai của Bộ GD&ĐT có thể xem là một khởi đầu đúng hướng trong việc xây dựng và củng cố cơ chế giải trình trách nhiệm trong hệ thống đại học. Giải trình trách nhiệm cần trở thành một nhân tố không thể thiếu trong mọi khâu của quá trình quản lý, trở thành một nguyên tắc hoạt động của từng người và của cả tổ chức. Nó hoàn toàn đối lập với cách làm qua quýt, dối trá, cách báo cáo và nhào nặn con số sao cho “đẹp” bất chấp sự thật. Nó là nền tảng để xây dựng văn hóa trách nhiệm và văn hóa chất lượng.

Nếu như cơ chế giải trình trách nhiệm được thực hiện nghiêm túc thông qua những định chế thích hợp chẳng hạn các báo cáo tài chính được kiểm toán độc lập, thì nhiều khả năng là nguồn lực của nhà trường sẽ được sử dụng một cách hiệu quả hơn cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu và phát triển. Cũng cần lưu ý là điều này đòi hỏi một bộ khung chính sách phù hợp, trước hết là từ các cơ quan quản lý. n
______
(*) Đại học Quốc gia TPHCM

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới