Thứ Hai, 29/07/2024
35.6 C
Ho Chi Minh City

May mà… thiếu điện?!

An Nhiên

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) – Câu chuyện thiếu điện nóng bỏng hơn cả mùa hè miền Bắc suốt vài tuần qua. Ở góc độ nào đó, đây là dịp may vì nó bộc lộ toàn diện những hạn chế, vướng mắc của ngành điện và thôi thúc Chính phủ đánh giá toàn diện các vấn đề liên quan như: phát triển các nguồn, triển khai các dự án nguồn và lưới truyền tải, hoàn thiện thị trường mua bán điện cạnh tranh…

Trời không mưa và nắng nóng kéo dài khiến các hồ thủy điện đã về mực nước chết không thể phát điện. Nguồn: EVN.com

Thoạt nhìn, miền Bắc thiếu điện trong thời gian qua là do… ông Trời và sự đen đủi. Trời không mưa và nắng nóng kéo dài dẫn đến 2 hệ quả. Một là nhu cầu sử dụng điện tăng cao đột ngột. Hai là nguồn thủy điện – chiếm 43,6% trong cơ cấu nguồn cung cấp điện cho miền Bắc – không thể phát điện bởi hầu hết các hồ đã về mực nước chết.

Trong lúc đó, nhiệt điện – nguồn cung cấp điện lớn thứ 2 – lại gặp trục trặc “làm phức tạp thêm vấn đề”, như lời Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An. Bên cạnh những tổ máy đã bị sự cố dài ngày trước khi xảy ra căng thẳng trong cung ứng điện thì nhiều nhà máy nhiệt điện “ngon lành” cũng gặp sự cố thiết bị do huy động với công suất cao trong thời gian dài.

Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn nằm ở việc triển khai các dự án nguồn điện và lưới điện. Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Năng lượng và Phát triển xanh, cho biết 7-8 năm qua, miền Bắc không có dự án nguồn điện mới nào được khởi công.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hiện chiếm 38,4% tổng công suất hệ thống điện, còn lại của nhà đầu tư khác. Thời gian qua, các dự án nguồn điện trọng điểm của EVN đều bị chậm tiến độ do quá trình triển khai gặp rất nhiều vướng mắc.

Chỉ đạo cả nước tiết kiệm điện hay thanh tra EVN là cần thiết nhưng không phải là giải pháp gốc rễ cho bài toán thiếu điện ở miền Bắc.

Cụ thể, Quy hoạch Điện VIII chậm được phê duyệt nên EVN chưa có đủ cơ sở pháp lý để triển khai các bước tiếp theo của hai dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I và II (trên địa bàn tỉnh Quảng Bình). Trong đó, dự án Nhiệt điện Quảng Trạch I công suất lắp đặt 1.200 MW bị vướng ở khâu giải phóng mặt bằng dẫn đến nguy cơ chậm tiến độ.

Dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng khởi công tháng 1-2021 và cơ bản bám sát tiến độ cho đến thời điểm xảy ra sạt trượt khu vực hố móng dự án. Sau thời gian cân nhắc “rất dài” của Bộ Công Thương, dự án được thi công trở lại vào tháng 9-2022 song gặp mùa mưa nên mục tiêu vận hành vào quí 4-2023 càng trở nên khó khăn. Cũng vậy, nhiều dự án điện của các nhà đầu tư khác không thể về đích như dự tính trong Tổng sơ đồ Điện VII điều chỉnh vì nhiều lý do.

Bên cạnh đó, các chuyên gia trong nước và chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ra rằng, thị trường điện vận hành chậm chạp, với thực tế giá điện không phản ánh đầy đủ các chi phí theo thị trường chính là nguồn cơn khiến các đối tác tham gia không mặn mà, góp phần dẫn tới lỗ hổng về an ninh năng lượng.

Về lưới truyền tải, Việt Nam hiện có hệ thống truyền tải 220 KV, 500 kV lớn nhất Đông Nam Á, lưới điện 110 KV chỉ thua Thái Lan và đều do EVN nắm giữ – theo lời lãnh đạo EVN. Trong đó, lưới điện truyền tải Bắc – Nam gồm hai đường dây 500 kV mạch 1, mạch 2, nhưng mạch 3 mới đầu tư từ phía Nam ra đến Vũng Áng (Hà Tĩnh) và chưa có đường truyền tải ra ngoài Bắc. Vì thế, giả sử 85 dự án năng lượng tái tạo – tập trung chủ yếu ở miền Trung và miền Nam – có đầy đủ hồ sơ pháp lý và hoàn tất đàm phán bán điện với EVN thì cũng không thể đưa ra miền Bắc để giải cơn khát điện.

Quy hoạch Điện VIII vừa được phê duyệt đã đặt ra kế hoạch làm đường dây 500kV mạch 3 từ Hà Tĩnh trở ra miền Bắc kết nối đến Hưng Yên và khép kín mạch vòng, thời gian thực hiện từ nay đến năm 2030. Trước tình thế cấp bách hiện nay, EVN đã giao Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện ngay dự án này. Lãnh đạo EVN cho biết, nếu dốc sức làm thì có thể có thêm 1.000-1.500 MW kết nối mạch vòng đưa điện từ Nam ra Bắc, song cũng dự báo rằng việc hoàn thành hệ thống truyền tải mạch 3 sẽ gặp nhiều khó khăn và cần thời gian.

Theo tính toán của EVN, để đảm bảo điện cho phát triển kinh tế với tăng trưởng GDP từ 6,5-7% theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, dự báo nhu cầu điện tăng trưởng khoảng 9%/năm với kịch bản cơ sở. Ở kịch bản nền kinh tế hồi phục và tăng trưởng mạnh thì mức tăng trưởng nhu cầu điện năm 2022 là khoảng 11,5% và các năm 2023-2025 bình quân 10,36%/năm. Với miền Bắc, số liệu thực tế của EVN cho thấy nhu cầu điện chiếm gần 50% toàn quốc và dự báo tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước. Hiện tại, hệ thống điện miền Bắc có công suất lắp đặt là 29.500 MW; công suất khả dụng (gồm cả điện nhập khẩu) chỉ đạt 17.500-17.900 MW; và mất điện trên diện rộng đã xảy ra khi nhu cầu sử dụng điện vượt 20.000 MW trong những ngày vừa qua.

Hoặc, theo thông tin trong tọa đàm gần đây về giải bài toán thiếu điện, miền Bắc có tốc độ tăng trưởng phụ tải cao nhất cả nước, ngưỡng 9,3%/năm trong 2016-2020, tương ứng gần 6.000 MW nhưng tăng trưởng nguồn điện chỉ đạt 4.600 MW giai đoạn này, khoảng 4,7% một năm.

Tất cả dữ liệu ở trên sẽ giúp trả lời cho câu hỏi: tình trạng thiếu điện trầm trọng, cúp điện liên miên ở miền Bắc liệu có tiếp diễn trong thời gian tới không hay chỉ mang tính gián đoạn, tạm thời khi thời tiết cực đoan?

Với Chính phủ, đây lời cảnh báo về việc đảm bảo điện cho nền kinh tế và tiêu dùng. Chỉ đạo cả nước tiết kiệm điện hay thanh tra EVN là cần thiết nhưng không phải là giải pháp gốc rễ cho bài toán thiếu điện ở miền Bắc. Trước thềm triển khai Quy hoạch Điện VIII, giờ là lúc phải đánh giá toàn diện các vấn đề liên quan như phát triển các nguồn (đặc biệt là nhìn nhận đúng vị trí, vai trò của năng lượng tái tạo), triển khai các dự án nguồn và lưới truyền tải, hoàn thiện thị trường mua bán điện cạnh tranh… và đặc biệt là ai chịu trách nhiệm khi để xảy ra thiếu điện? Nếu không làm được những việc này, nền kinh tế sẽ “lãnh đủ” vì thiếu điện!

12 BÌNH LUẬN

  1. Cơ chế độc quyền năng lượng bao nhiêu năm nhưng làm không được chứng tỏ cơ chế đó đã sai, không hiệu quả.. Thấy thiếu điện thiếu xăng dầu gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế vậy thì tại sao không gấp rút bỏ cơ chế độc quyền. Một đất nước nước nhiệt đới nắng nóng quá nhiều như ta nhưng cơ chế chính sách kiểu gì mà dân không mặn mà làm điện áp mái… Sự lúng túng còn đến bao giờ?

    • Trả lời tới Người ngay thẳng: Cái này bạn thấy đó, năm nay nóng hơn mọi năm và điều này ở toàn bộ Đông Nam Á. Với lại điện VN chủ yếu là thủy điện chứ có phải hạt nhân đâu, nắng nhiều, khô, không có nước thì bạn có xây bao nhiêu thủy điện đi nữa cũng không có nước. Gỡ bỏ độc quyền thì tư nhân làm được gì? Họ cũng phải làm có lợi cho họ nên họ sẽ mua điện từ nước ngoài giống EVN.

  2. Thật ra đây là tình huống tệ. Quy hoạch ngành là để có chiến lược phù hợp trong trung và dài hạn, đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai nói chung và an ninh năng lượng nói riêng. Đa dạng hoá để giảm thiểu rủi ro, phát triển bền vững luôn là bài toán song hành. Để thiếu điện như hiện nay thì chúng ta nên nhìn nhận rõ khuyết điểm trong chính sách. Tuy nhiên như đã nói ở đầu, đây là tình huống tệ, chưa phải là rất tệ, và cực kỳ tệ.

    • Mùa hè 2023 đã làm bộc lộ nhược điểm nguy hiểm của ngành điện Việt Nam. Nhược điểm này có nguyên nhân chính là do chiến lược phát triển năng lượng điện, hay nói rõ hơn nữa là chính sách vĩ mô về năng lượng hình như có chút vấn đề dưới góc độ quản lý. Thêm nữa sự độc quyền quá đáng của ngành điện dẫn đến sự kém bền vững hơn so với đa dạng hóa hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thiếu điện như mùa hè 2023 ở miền bắc. Giả sử thời tiết tự nhiên nắng nóng và hạn hán cứ tiếp tục kéo dài đến tháng 9, tháng 10 thì nền kinh tế sẽ xảy ra hậu quả xấu đến mức nào khi mà thủy điện các hồ đều cạn nước dưới mực nước chết không thể chạy máy? Không chỉ các ngành kinh tế suy thoái mà ngay cơ sở hạ tầng ngành điện có thể bị phá hủy.
      Cần phải xác định lại chiến lược phát triển năng lượng, ngành điện; cải cách cơ cấu hệ thống ngành điện theo hướng đa dạng hóa hợp lý (chứ không phải thi đua phát triển làm ra điện) gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước với tầm nhìn dài hạn. Nội bộ ngành điện cũng phải cải cách lại theo hướng tinh giản và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, nhất là cơ cấu nhân sự, phải đặt lợi ích phát triển quốc gia, dân tộc lên trên hết. Phải xóa bỏ từ trứng nước tư tưởng cục bộ ngành, lợi ích ngành, lợi ích nhóm. Càng không nên có tư tưởng phụ thuộc bằng cách đi mua điện của nước ngoài, một cơ sở chiến lược cực kỳ quan trọng của quốc gia lại trông chờ vào nước ngoài.
      Vấn đề thủy điện cần phải xét lại còn tương lai hay đã đến giới hạn, dù thế nào bên cạnh đó phải tính đến chiến lược phát triển sử dụng nước, tích trữ nước, phát triển bảo vệ rừng. Đây là một số suy nghĩ cá nhân tôi tuy nông cạn nhưng với thành ý về phát triển năng lượng. Bản thân tôi và gia đình cũng như nhiều ngưòi dân khác cũng khốn khổ vì bị mất điện liên tục như những ngày nắng nóng vừa qua.
      Nguyễn văn Tùng
      Nguyenvantungqtkdtu@gmail.com

  3. Đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 7%/năm mà cắt điện luân phiên cả 24h, vậy thử hỏi đất nước làm sao phát triển được. Khu công nghiệp nơi tôi làm việc một tuần cắt điện 3 ngày, cứ cắt điện là công nhân phải nghỉ không lương, tình trạng mất điện kéo dài rồi sẽ còn rất nhiều hệ lụy khác, vậy tôi mong các cấp lãnh đạo cần giải quyết vấn đề này càng nhanh càng tốt để đất nước sớm trở nên giàu mạnh

  4. Câu chuyện thiếu điện chỉ là giọt nước tràn ly, sự yếu kém trong công tác quản lý vĩ mô, đặc biệt là công tác quy hoạch cơ cấu nguồn điện và truyền tải, điều độ điện dẫn tới tình trạng nguồn điện thừa mà phải đi mua điện nước ngoài và cắt điện triền miên, coi chừng thành quả công nghiệp hóa, tăng trưởng FDI những năm qua tan thành mây khói

  5. Nhiều người muốn tư nhân hoá ngành điện. Các bạn hãy nhìn qua sách giáo khoa kìa. Từ khi tư nhân hoá thì mỗi năm lại làm ra 1 bộ sách và bán với giá cắt cổ.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới