Nguy cơ bùng nổ dân số
Thoa Nguyễn thực hiện
![]() |
Ông Nguyễn Văn Tân. |
(TBKTSG) - Số liệu tại cuộc họp báo nhân Ngày dân số thế giới 11-7 mới đây cho thấy số phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ tiếp tục tăng trong thời gian qua và xu hướng này sẽ còn kéo dài trong khoảng 10 năm tới. Hiện các nhà nhân khẩu học đang lo ngại về nguy cơ một cuộc bùng nổ dân số.
TBKTSG đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Tân, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.
TBKTSG: Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số tiến hành ngày 1-4-2009, tỉ lệ phát triển dân số giai đoạn 1999-2009 ở mức thấp nhất từ trước tới nay, chỉ là 1,2% so với 1,7% giai đoạn 1989-1999 và 2,1% giai đoạn 1979-1989. Tuy nhiên các nhà nhân khẩu học đang lo ngại nguy cơ bùng nổ dân số. Xin ông giải thích thêm.
- Ông Nguyễn Văn Tân: Tỉ lệ phát triển dân số đang ở mức thấp nhưng quy mô dân số đã ở mức rất lớn. Bình quân dân số hàng năm giai đoạn 1979-1989 là 56 triệu người; giai đoạn 1989-1999 là 72 triệu người, và con số này là 82 triệu người ở giai đoạn 1999-2009.
Theo dự báo, quy mô dân số trung bình giai đoạn sắp tới sẽ lên mức 90,2 triệu người. Tương ứng với quy mô dân số lớn, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ cũng lớn. Nếu năm 1989, cả nước có 17 triệu phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thì đến năm 1999 đã có đến 22 triệu người và năm 2009 là gần 25 triệu người.
Mặt khác, nhiệm vụ giảm mức sinh khá phức tạp. Ví dụ, ở thời điểm 1999, tổng tỉ suất sinh của cả nước là 2,3 con/cặp vợ chồng, riêng khu vực đồng bằng sông Hồng là 2 con/cặp vợ chồng, nhưng ở thời điểm 2009, khi tổng tỉ suất sinh cả nước giảm xuống chỉ còn 2,03 con/cặp vợ chồng thì khu vực đồng bằng sông Hồng lại nhích lên 2,11 con/cặp vợ chồng. Điều đó cho thấy, để tiếp tục giảm mức sinh xuống thấp hơn nữa không phải là điều dễ dàng.
TBKTSG: Nguyên nhân nào khiến mức sinh thấp chưa thực sự vững chắc, tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại?
- Mong muốn gia đình có nhiều con cái là tâm lý được truyền từ nhiều đời trước, đã ăn sâu, bám rễ ở một bộ phận người dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, kể cả những người khá giả. Theo một khảo sát nhanh, số con lý tưởng ở đại đa số các gia đình thuộc đối tượng này là 3 con/cặp vợ chồng. Do vậy, chỉ cần một động thái hoặc một thông tin nào đó có thể gây hiểu lầm là Nhà nước không chủ trương kế hoạch hóa gia đình nữa thì người dân lại sinh thêm con.
Đã có kinh nghiệm thực tế về tình trạng tăng mức sinh con ở giai đoạn 2003-2004, khi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số ghi: “Mỗi cặp vợ chồng có quyền quyết định số con, khoảng cách sinh con và tuổi sinh con lần đầu một cách tự do”.
Ngoài ra, vào tháng 8-2007, Quốc hội và Chính phủ có quyết định giải thể Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, thực chất là đưa bộ phận này về Bộ Y tế quản lý, nhưng theo cách hiểu của người dân, giải thể nghĩa là không kiểm soát kế hoạch hóa gia đình nữa và mức sinh ngay lập tức nhích lên.
TBKTSG: Không chỉ đứng trước nguy cơ bùng nổ dân số, cơ cấu dân số nước ta hiện nay đang rơi vào tình trạng mất cân bằng giới tính. Ông có thể nói rõ hơn về thực tế này?
- Năm 2005, tỷ lệ giới tính khi sinh là 109 bé trai/100 bé gái, năm 2006 là 110/100, năm 2007 là 112/100 và năm 2009 là 111/100. Hầu hết các vùng dân cư đều có sự chênh lệch ở mức báo động, mà cao nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ hiện là 114,6/100, và tỉnh có sự chênh lệch giới tính cao nhất là Hưng Yên: 130,7 bé trai/100 bé gái.
Đây là sự chênh lệch rất cao bởi mức sinh tự nhiên trung bình chỉ trong khoảng 103 đến 107/100. Nếu tỷ lệ này không được giảm xuống hoặc càng gia tăng trong những năm tới thì sau 20-25 năm nữa, tình trạng thiếu phụ nữ sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xã hội như nạn mại dâm, nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em gái gia tăng… Xã hội bất an chắc chắc cũng sẽ tác động đến phát triển kinh tế.
TBKTSG: Theo ông, tại sao khu vực đồng bằng sông Hồng có sự chênh lệch giới tính khi sinh cao nhất?
- Mong muốn có con trai là tâm lý lâu đời, chưa kể giá trị lao động của nam giới ở những miền sông nước, miền biển được đánh giá là cao hơn phụ nữ. Ngày nay, sự tiên tiến của các kỹ thuật chẩn đoán giới tính thai nhi ở những khu vực có sự phát triển về dịch vụ chăm sóc sức khỏe càng góp phần kéo giãn sự chênh lệch này. Một số khảo sát gần đây cho thấy cha mẹ có khuynh hướng bỏ thai bé gái ngay từ lần mang thai đầu tiên chứ không phải như trước đây là ở lần mang thai thứ hai…
TBKTSG: Báo cáo của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình cho thấy Việt Nam đang ở giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” (*). Giai đoạn này chỉ xuất hiện một lần và kéo dài từ 25 đến 35 năm. Ông có thể cho biết những ảnh hưởng tích cực của cơ cấu dân số này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội?
- Năm 2007, nước ta bước vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”. Giai đoạn này kéo dài 25 hay 40 năm tùy theo cách chúng ta ứng xử trong việc hạn chế mức sinh. Chúng tôi đã tính toán, nếu chúng ta duy trì lâu dài mức sinh 2 con/cặp vợ chồng thì giai đoạn này kéo dài được 25 năm (tức đến 2035 là kết thúc).
Nếu chúng ta giảm mức sinh xuống 1,8 con/cặp vợ chồng từ năm 2020 thì giai đoạn cơ cấu dân số vàng vào khoảng 30 năm (năm 2040 sẽ kết thúc). Nếu giảm nhanh mức sinh còn 1,7 con/cặp vợ chồng từ năm 2020, rồi tiếp tục giảm xuống 1,5 con/cặp vợ chồng từ năm 2030 và 1,1 con/cặp vợ chồng từ năm 2040 thì giai đoạn này sẽ kéo dài khoảng 40 năm.
Đây là một cơ hội để chúng ta có được nguồn nhân lực dồi dào. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn lao động này như thế nào còn phụ thuộc vào chính sách vĩ mô. Nếu như lao động dồi dào cả về mặt quy mô và tỉ trọng được đào tạo nghề cao, đồng thời có được công ăn việc làm, có được năng suất cao thì dân số biến thành “vàng”. Trong trường hợp ngược lại thì nguy cơ thất nghiệp cùng với hàng loạt tệ nạn theo sau đó là rất lớn. Ngoài ra, phương án giảm nhanh mức sinh đồng thời buộc chúng ta phải đối diện với tình trạng dân số già diễn ra rất nhanh.
TBKTSG: Có cách nào phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng, thưa ông?
- Kinh nghiệm từ một số nước và lãnh thổ đã thành công trong việc tận dụng cửa sổ nhân khẩu học như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... cho thấy việc tăng cường đào tạo nghề sớm chừng nào tốt chừng nấy. Việc đào tạo nghề phải được chú trọng ở tất cả các bậc đào tạo, từ dạy nghề đến trung học chuyên nghiệp lẫn đại học. Vấn đề thứ hai nữa là tăng cường chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội cho nguồn lao động này. Ngoài ra, cũng cần thực hành tiết kiệm, tăng cường tích lũy để đầu tư.
TBKTSG: Ông đánh giá như thế nào về công tác quản lý dân số của nước ta hiện nay?
- Cách quản lý của chúng ta rất lạc hậu và phân tán. Chúng ta chỉ có số liệu dân số chính xác ở các kỳ tổng điều tra dân số, nhưng mỗi 10 năm mới thực hiện một lần, vì chi phí rất lớn. Trong khi ở các nước, người ta có thể đếm chính xác số người hàng năm. Các số liệu hàng năm trên niên giám thống kê của ta chỉ là những con số ước đoán.
Đơn cử số liệu dân số cả nước từ cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 là 85,8 triệu người, trong khi niên giám thống kê 2008 công bố trước đó cho con số là 86,7 triệu người. Sự chênh lệch giữa các con số ảnh hưởng lớn đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm hiệu quả việc cân đối, phân bổ ngân sách.
TBKTSG: Theo ông, giải pháp nào giúp việc quản lý dân số chặt chẽ hơn?
- Như Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã đề nghị, nên chăng chúng ta cần có một mã số công dân cho từng người. Mã số công dân được hiểu là số định danh công dân. Mã số này được cấp cho mỗi công dân một lần duy nhất trong đời vào lúc họ được sinh ra và giữ cho đến khi mất, không nhầm lẫn với bất kỳ một người nào khác.Thực tế, chúng ta có đủ điều kiện về nguồn lực cũng như kỹ thuật để thực hiện việc này. Vấn đề là chưa thật sự quyết tâm.
______________________________________________
(*) “Cơ cấu dân số vàng” được các nhà nhân khẩu học gọi là “giai đoạn dư lợi dân số” hay “cửa sổ cơ hội nhân khẩu học”. Đặc trưng của cơ cấu dân số này là tỉ số phụ thuộc ở dưới mức 50%, nói cách khác, cứ 2 người đi làm thì có một người phụ thuộc (là trẻ em dưới 14 tuổi hoặc người già trên 60 tuổi). Khi nào tỉ số phụ thuộc vượt trên 50% thì giai đoạn cơ cấu dân số vàng kết thúc.