Ôi số liệu!
Huỳnh Thế Du
Hôm nay tôi cần số liệu về tỉ phần GDP của TPHCM trong tổng GDP của cả nước và GDP bình quân đầu người của Thành phố năm 2013. Sau một hồi tính toán từ số liệu của Cục thống kê Thành phố và Tổng cục Thống kê, tôi cảm thấy hết sức bối rối với những con số có được.
Tỷ phần GDP
Thứ nhất, nếu lấy GDP theo giá thực tế năm 2013 của Thành phố là 764.561 tỉ đồng chia chia cho con số tương ứng của cả nước 3.584.261 tỉ đồng thì GDP của Thành phố chiếm 21,3% GDP của cả nước.
Thứ hai, nếu lấy GDP theo giá cố định năm 2010 của Thành phố là 609.350 tỉ đồng chia cho con số tương ứng của cả nước 2.543.584 tỉ đồng thì GDP của Thành phố chiếm đúng 24% GDP của cả nước.
Thứ ba, nếu lấy GDP theo cố định năm 1994 của Thành phố là 198.639 tỉ đồng chia cho con số tương ứng của cả nước 648.056 tỉ đồng thì GDP của Thành phố chiếm đến 30,7% GDP của cả nước.
Ba kết quả hoàn toàn khác nhau như vậy thì nên lấy số nào đây?
Bảng 1: GDP theo giá thực tế (tỉ đồng)
Năm | TPHCM | Cả nước |
GDP TPHCM/ GDP Cả nước |
||
Tổng | Tăng trưởng | Tổng | Tăng trưởng | ||
2000 | 75.863 | 441.646 | 17,2% | ||
2001 | 84.852 | 11,8% | 481.295 | 9,0% | 17,6% |
2002 | 96.403 | 13,6% | 535.762 | 11,3% | 18,0% |
2003 | 113.326 | 17,6% | 613.443 | 14,5% | 18,5% |
2004 | 137.087 | 21,0% | 715.307 | 16,6% | 19,2% |
2005 | 165.297 | 20,6% | 839.211 | 17,3% | 19,7% |
2006 | 190.561 | 15,3% | 974.266 | 16,1% | 19,6% |
2007 | 229.197 | 20,3% | 1.143.715 | 17,4% | 20,0% |
2008 | 287.513 | 25,4% | 1.485.038 | 29,8% | 19,4% |
2009 | 337.040 | 17,2% | 1.658.389 | 11,7% | 20,3% |
2010 | 422.270 | 25,3% | 1.980.914 | 19,4% | 21,3% |
2011 | 512.721 | 21,4% | 2.535.008 | 28,0% | 20,2% |
2012 | 591.863 | 15,4% | 3.245.419 | 28,0% | 18,2% |
2013 | 764.561 | 29,2% | 3.584.261 | 10,4% | 21,3% |
Thông thường, GDP danh nghĩa thường được chọn. Tuy nhiên, cũng có gì đó không ổn với GDP danh nghĩa. Từ bảng 1 cho thấy, GDP của Thành phố chỉ xoay quanh mức 20% GDP của cả nước. Tỉ lệ năm 2013 đúng bằng năm 2010, trong khi không biết lý do gì mà năm 2012 quay lại tỉ lệ năm 2002.
Đành rằng do sự khác biệt về chỉ số giá ở Tp.HCM và cả nước dẫn đến sai lệch. Tuy nhiên, rất không ổn khi biết rằng tăng trưởng GDP thực bình quân của Thành phố gấp 1,6 lần mức tăng trưởng của cả nước trong hơn một thập niên qua. Hà cớ gì mà sau 10 năm hai tỉ lệ lại như nhau?
Bảng 2: GDP theo giá cố định năm 1994
Năm | TPHCM | Cả nước |
GDP TPHCM/ GDP Cả nước |
||
Tổng | Tăng trưởng | Tổng | Tăng trưởng | ||
2000 | 52.754 | 273.666 | 6,79% | 19,3% | |
2001 | 57.787 | 9,5% | 292.535 | 6,89% | 19,8% |
2002 | 63.670 | 10,2% | 313.247 | 7,08% | 20,3% |
2003 | 70.947 | 11,4% | 336.242 | 7,34% | 21,1% |
2004 | 79.237 | 11,7% | 362.435 | 7,79% | 21,9% |
2005 | 88.866 | 12,2% | 393.031 | 8,44% | 22,6% |
2006 | 99.672 | 12,2% | 425.372 | 8,23% | 23,4% |
2007 | 112.271 | 12,6% | 461.344 | 8,46% | 24,3% |
2008 | 124.303 | 10,7% | 490.458 | 6,31% | 25,3% |
2009 | 135.053 | 8,6% | 516.566 | 5,32% | 26,1% |
2010 | 150.928 | 11,8% | 551.609 | 6,78% | 27,4% |
2011 | 166.423 | 10,3% | 584.073 | 5,89% | 28,5% |
2012 | 181.737 | 9,2% | 614.737 | 5,25% | 29,6% |
2013 | 198.639 | 9,30% | 648.056 | 5,42% | 30,7% |
Nếu tính theo giá cố định năm 1994 thì tỉ lệ nhìn hợp lý so với tốc độ tăng trưởng của Thành phố và của cả nước. Tuy nhiên, tôi thực sự bối rối với giá cố định năm 2010 mới được sử dụng từ năm 2013. Với mức giá này thì GDP của Thành phố chỉ bằng 24% GDP của cả nước. Phần chênh lệch giữa 30,7% và 24% là do đâu mà ra?
GDP bình quân đầu người
Năm 2010, tổng GDP và dân số của TPHCM lần lượt là 422.270 tỉ đồng và 7,4 triệu người. Với tỉ giá hạch toán 18.932 đồng/đô-la của Bộ Tài chính, GDP bình quân đầu người của Thành phố là 3.015 đô-la. Trên thực tế, Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố dùng con số 2.982 đô-la khi xây dựng quy hoạch tổng thể đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
Năm 2013, GDP và dân số của Thành phố lần lượt là 764.561 tỉ đồng và 7,99 triệu người. Với tỉ giá hạch toán 21.036 đồng/đô-la của Bộ Tài chính, GDP bình quân đầu người của Thành phố là 4.548 đô-la, gấp 1,5 lần con số năm 2010.
Thoạt nhìn hai con số sẽ thấy rất khích lệ vì sau 3 năm GDP tính theo đô-la của Thành phố tăng gấp rưỡi. Tuy nhiên, GDP thực bình quân đầu người chỉ tăng hơn 20% một chút mà thôi (mức tăng GDP tổng là 31,6%, nhưng trừ mức tăng dân số 8% trong ba năm). Phần tăng còn lại là do yếu tố tỉ giá hay đồng tiền bị lên giá.
Giá bánh McDonald’s ở Mỹ chỉ khoảng 2,5 đô-la hiện tại và trong trong 3 năm qua thay đổi không đáng là bao. Nếu năm 2010 bánh mì này có mặt ở Việt Nam thì chỉ khoảng 50.000 đồng một chiếc. Đến nay, chừng 55.000 đồng một chiếc là ổn vì tỉ giá chỉ tăng hơn 10%.
Điều đáng lưu ý là giá lương thực thực phẩm trong 3 năm qua tăng gần gấp rưỡi. Một bát phở cách đây ba năm chỉ khoảng 30.000 đồng thì nay đã gần 60.000 đồng. Đây chính là một trong những động cơ quan trọng để người Việt bỏ hàng nội dùng hàng ngoại. Đơn giản vì hàng ngoại ngày càng rẻ hơn so với hàng nội.
Đó là chưa kể đến yếu tố về an toàn thực phẩm hay chất lượng. Do vậy, sản xuất trong nước đình đốn, kinh tế kiệt quệ là điều dễ hiểu.
Chỉ nhìn vào những con số nêu trên đã thấy rất nhiều vấn đề rồi.
Để trở nên thịnh vượng thì việc cần có những con số chính xác và những chính sách thúc đẩy sản xuất trong nước là điều tối quan trọng. Nếu không thì đừng than vãn Việt Nam mãi không phát triển và trở thành thị trường béo bở cho những nhà sản xuất bên ngoài.
(LTS: Chúng tôi sẽ tìm hiểu ở Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê TPHCM để tìm câu trả lời cho tác giả Huỳnh Thế Du).