(KTSG Online) – Nhân dịp Tết Quý Mão 2023, KTSG Online đã có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), xung quanh hoạt động điều hành kinh tế vĩ mô năm 2022 và giải pháp ứng phó với những rủi ro bất định trong năm 2023.
Theo bộ trưởng, điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa và linh hoạt sẽ là chìa khoá giúp kinh tế Việt Nam kịp thời thích ứng với các diễn biến bất định trong nước và quốc tế.
- Phân tích, dự báo vĩ mô bị… lỗi nhịp
- Nghị quyết Quốc hội: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
- KTSG Online: Những số liệu thống kê cho thấy tình hình kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt dự báo. Yếu tố nào giúp Việt Nam đạt được kết quả trên?
- Ông Nguyễn Chí Dũng: Tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo trong năm 2022. Thêm vào đó, quan điểm điều hành chính sách của nhiều quốc gia thay đổi, đảo chiều nhanh, dấu hiệu suy thoái của kinh tế thế giới và nhiều nước lớn ngày càng rõ nét.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều ngành, lĩnh vực, hoàn thành và vượt nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo; chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân ước dưới 4%; tăng trưởng GDP trên 8%; thị trường tài chính, tiền tệ cơ bản ổn định; điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường; bảo đảm thanh khoản, tăng trưởng tín dụng hợp lý, tháo gỡ những nút thắt của dòng vốn trong nền kinh tế; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên.
Công tác điều hành giá được chỉ đạo quyết liệt, sát sao, hiệu quả, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, sách giáo khoa, hỗ trợ hoạt động kinh doanh và đời sống người dân…
Ngay từ đầu năm, bám sát các nghị quyết, kết luận của Đảng và Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương triển khai quyết liệt, đồng bộ, kịp thời các nghiệm vụ, giải pháp đề ra trên tất cả lĩnh vực. Trong đó, vừa xử lý những khó khăn thách thức mới xuất hiện vừa xử lý những tồn tại từ lâu năm của nền kinh tế.
Chính phủ và các bộ, ngành cũng tổ chức nhiều hội nghị lớn, thành lập các tổ công tác, ban chỉ đạo liên ngành để giải quyết khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp.
- Kinh tế Việt Nam đã chịu ảnh hưởng không nhỏ từ những biến động khó lường của kinh tế thế giới trong năm 2022. Thực tế này cho chúng ta bài học gì trong cách điều hành kinh tế của năm 2023, thưa Bộ trưởng?
Kinh tế Việt Nam dù đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực nhưng vẫn chịu tác động sâu sắc từ những biến động nhanh và mạnh của tình hình thế giới. Từ cuối tháng 10-2022 tới nay, các động lực tăng trưởng, sản xuất công nghiệp có xu hướng chậm lại. Các thị trường xuất khẩu, nhập khẩu lớn của Việt Nam bị thu hẹp.
Các thị trường gồm chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro, nhiều vướng mắc, bất cập chưa được xử lý, tháo gỡ triệt để. Niềm tin của nhà đầu tư tham gia thị trường giảm sút.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối chịu áp lực lớn, có thời điểm xuất hiện “nút thắt” về dòng tiền, thanh khoản của nền kinh tế.
Trước những vấn đề trên, Chính phủ đã bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo quyết liệt các cấp, ngành, đại phương tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiều giải pháp để ứng phó.
Từ thực tiễn trong công tác điều hành, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm. Trong đó, cần bám sát đường lối, quan điểm điều hành của Đảng, Nhà nước, tổ chức thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, thống nhất, quyết liệt, kịp thời và sâu sát thực tiễn.
Trong bối cảnh càng có nhiều khó khăn, thách thức, càng phải đoàn kết, đồng lòng chia sẻ khó khăn, phát huy tinh thần trách nhiệm, kiên trì thực hiện mục tiêu nhưng thích ứng linh hoạt và quyết liệt hiệu quả trong điều hành.
Cùng với đó là theo dõi sát, chủ động, nắm chắc diễn biến tình hình quốc tế và trong nước để chủ động phương án ứng phó với các tình huống bất ngờ phát sinh.
Tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật; chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, “nói đi đôi với làm”; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phân bổ nguồn lực, tránh độ trễ trong khâu triển khai nhằm gia tăng hiệu quả tác động của chính sách.
Và cuối cùng là huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa yếu tố nội lực và ngoại lực, giữa trung ương và địa phương để thực hiện mục tiêu.
- Việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong bối cảnh áp lực lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ là rất phức tạp. Quan điểm của ông về vấn đề này?
Năm 2022, nhiều nền kinh tế trên thế giới có sự điều chỉnh trong quan điểm điều hành chính sách. Đó là, chuyển từ nới lỏng sang thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất nhằm ưu tiên kiểm soát lạm phát thay vì phục hồi kinh tế.
Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục kéo dài trong năm 2023, nhất là khi Ngân hàng Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) và nhiều ngân hàng trung ương vẫn đang cho thấy những tín hiệu tương đối thận trọng với lạm phát, thậm chí chấp nhận rủi ro suy thoái kinh tế cho tới khi lạm phát được kiểm soát.
Với bối cảnh này, áp lực điều hành chính sách vĩ mô đối với Việt Nam là rất lớn, đòi hỏi phải cân đối hợp lý giữa tỷ giá và lãi suất, giữa tăng trưởng và kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, cũng phải chú ý đến đặc điểm của Việt Nam là nước đang phát triển nên cần quan tâm hơn đến việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Thời gian qua, Chính phủ đã điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa, linh hoạt và kịp thời thích ứng với các diễn biến bất định, rủi ro của thị trường trong nước và quốc tế. Cùng với đó là điều chỉnh linh hoạt tỷ giá, lãi suất; tăng trưởng tín dụng hợp lý; kiểm soát tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro và đảm bảo kịp thời cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Ngoài ra, triển khai các chính sách hỗ trợ thuế, phí có tác động trực tiếp giảm chi phí, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ổn định đời sống người dân.
Điều này giúp mặt bằng giá cả cơ bản được giữ ổn định, bảo đảm cân đối cung cầu, nhất là các mặt hàng, dịch vụ thiết yếu phục vụ cho sản xuất - kinh doanh và tiêu dùng.
Đảng, Nhà nước luôn xác định việc điều hành đồng bộ, hài hòa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là quan điểm, định hướng quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời gian tới, để đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn, các chính sách phải phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thúc đẩy hiệu quả tổng thể của các chính sách, nhất là khi dư địa điều hành chính sách đang có xu hướng thu hẹp dần lại. Đồng thời, nghiên cứu, rà soát, tháo gỡ những “nút thắt” giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, tạo điều kiện thuận lợi để các chính sách vận hành và phối hợp đồng bộ, hiệu quả.
Bên cạnh đó, tiếp tục phát huy hiệu quả các cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành để phục vụ công tác xây dựng, điều hành các mục tiêu phát triển vĩ mô; nâng cao năng lực phân tích, đánh giá diễn biến kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước, kịp thời tham mưu, đề xuất các chính sách và giải pháp phù hợp.
- Trong dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, Thủ tướng đánh giá, bối cảnh thế giới đang có nhiều thách thức hơn thuận lợi, với những diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo. Chúng ta cần ứng xử ra sao với bối cảnh này?
Bối cảnh thế giới năm 2022 rất khó khăn, thách thức. Theo đó, nhiều tổ chức quốc tế đã liên tiếp đưa ra cảnh báo về những rủi ro, thách thức, bất ổn kinh tế toàn cầu. Nhiều tổ chức cũng đưa ra dự báo theo hướng điều chỉnh giảm mức tăng trưởng kinh tế thế giới và nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2022 so với những dự báo trước đây.
Với năm 2023, tình hình kinh tế thế giới dự báo tiếp tục biến động rất phức tạp, khó lường, thậm chí khó khăn hơn năm 2022 với lạm phát duy trì ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài kèm theo mất giá trị đồng tiền, giảm mạnh nhu cầu tiêu dùng tại nhiều quốc gia. Ngoài ra, thị trường bất động sản ở nhiều nước khó khăn hơn.
Khu vực doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề, thất nghiệp gia tăng dẫn đến nguy cơ bất ổn xã hội và chính trị ở một số nước. Thậm chí, một số quốc gia có dấu hiệu rơi vào suy thoái kinh tế với nguy cơ mất thanh khoản.
Bên cạnh đó, rủi ro, bất ổn tài chính, tiền tệ, nợ công, an ninh năng lượng, an ninh lương thực trên toàn cầu gia tăng... sẽ tác động mạnh, kéo dài, trên phạm vi lớn tới hầu hết các nền kinh tế.
Những thông tin trên đã được Bộ KHĐT tổng hợp, tham mưu trong quá trình xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, trình Chính phủ, Thủ tướng báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4.
Về phía bộ, chúng tôi cũng luôn chủ động phân tích, cập nhật dự báo, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, kịp thời tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng các giải pháp, chính sách điều hành cả trong ngắn hạn, trung và dài hạn để thích ứng với tình hình, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nhất là xây dựng Luật Đấu thầu (sửa đổi).
Cùng với đó là hoàn thiện định hướng phát triển 6 vùng kinh tế, đẩy nhanh công tác quy hoạch, tạo lập không gian, động lực phát triển mới cho các vùng, địa phương; đẩy mạnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, giải ngân vốn vốn đầu tư công; tháo gỡ các điểm nghẽn về nguồn lực, cải thiện sức cạnh tranh, năng lực nội tại của nền kinh tế; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Đây là những nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện, cùng với việc đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược, 12 nhóm nhiệm vụ giải pháp trọng tâm tại Chiến lược 10 năm. Việc này không chỉ là vấn đề hóa giải khó khăn, thách thức trước mắt mà còn nâng cao năng lực sản xuất trong nước, năng suất lao động, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh, khả năng tự chống chịu của nền kinh tế trước các thách thức mới từ bên ngoài trong trung và dài hạn.
- Bộ KHĐT có những giải pháp gì để nâng cao năng lực chống chịu của nền kinh tế ?
Việc nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế, tạo tiền đề xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong tình hình mới.
Đây là một định hướng, chủ trương nhất quán, xuyên suốt, được xác định rõ trong các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 tại Kỳ họp thứ 4, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng các nghị quyết triển khai thực hiện kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội triển khai thực hiện kế hoạch năm 2023.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đặt ra, chúng ta cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của năm 2023 trên tinh thần đoàn kết kỷ cương; bản lĩnh, linh hoạt; đổi mới sáng tạo; kịp thời, hiệu quả.
Ngoài ra, cần kiên định, nhất quán với với quan điểm, mục tiêu, định hướng chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước. Đó là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tiếp tục chú trọng, nâng cao công tác hoàn thiện thể chế, thực thi pháp luật, tạo điều kiện khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.
Tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định, trật tự, an toàn xã hội để phát triển đất nước.
- Nhiều doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng trong quí 4-2022 và quí 1-2023, hoặc đối mặt với chi phí đầu vào tăng cao. Ông có giải pháp gì để giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn?
Những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới khiến Việt Nam chịu tác động không nhỏ và một số tác động cũng có độ trễ tới nền kinh tế và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ cuối quí 1, kinh tế Việt Nam có dấu hiệu phục hồi khi Chính phủ chuyển sang chính sách “thích ứng linh hoạt” với dịch Covid-19. Đến quí 2, sự phục hồi bắt đầu rõ nét hơn, với tăng trưởng GDP đạt 7,72%, cao nhất trong hơn 1 thập kỷ.
Đến quí 3, nền kinh tế có mức tăng trưởng cao lên đến 13,7%, chủ yếu dựa trên kết quả nền tăng trưởng thấp của cùng kỳ năm 2021. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu có dấu hiệu chững lại do ảnh hưởng từ chính sách thắt chặt tiền tệ của các thị trường xuất khẩu chính, đặc biệt là Mỹ và EU. Một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực thuộc nhóm hàng không thiết yếu cho thấy tình trạng thiếu đơn hàng và sụt giảm doanh thu như dệt may và da giầy, đồ gỗ.
Bước sang qui 4, nền kinh tế bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố trong nước và quốc tế. Nhiều nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đang dần giảm tốc, các dấu hiệu bất ổn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp đang dần hiện rõ.
Năm 2023, thế giới dự kiến tiếp tục thắt chặt chi tiêu và kịch bản mà nhiều chuyên gia dự báo là kinh tế Mỹ và các nước phát triển sẽ rơi vào suy thoái với lãi suất duy trì ở mức cao để kiềm chế lạm phát.
Để hỗ trợ doanh nghiệp có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, Chính phủ sẽ tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, cởi trói, giải phóng tiềm lực của các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Đồng thời đổi mới các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường.
Tập trung giải quyết những vấn đề cốt lõi như cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ - chính quyền điện tử; liên thông các thủ tục giữa các bộ ban ngành để giúp doanh nghiệp, người dân giảm thiểu thời gian, công sức, chi phí.
Thêm vào đó là các giải pháp phù hợp hỗ trợ đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho thương nhân nhập khẩu xăng dầu, than, góp phần tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh năng lượng.
Xử lý kịp thời các khó khăn trong ngắn hạn liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả, bền vững trong trung hạn, dài hạn; đề xuất giải pháp xử lý chủ động, phù hợp, hiệu quả với diễn biến tình hình thực tế.
Tháo gỡ khó khăn cho các dự án phát triển bất động sản, nhất là nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cho người có thu nhập thấp.
Cung cấp thường kỳ các thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp.
Bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước; điều hành giá xăng phù hợp với tình hình thực tiễn, công khai, minh bạch, hiệu quả, hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người dân
Đổi mới các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số; tăng cường công tác thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp về thị trường, mặt hàng xuất khẩu.
- Khó khăn về vốn, dòng tiền và thanh khoản hiện là thách thức lớn nhất với doanh nghiệp, Bộ KHĐT đã có những kiến nghị gì với Chính phủ?
Doanh nghiệp hiện gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn để duy trì sản xuất - kinh doanh; khó khăn trong duy trì các kênh huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng đầu tư, phục hồi doanh nghiệp. Trong khi đó, đơn hàng, doanh thu, doanh số bị sụt giảm mạnh, các kênh huy động vốn của doanh nghiệp hầu như đang bị “tắc”, từ trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu đến tín dụng ngân hàng.
Bối cảnh này xuất phát từ một số nguyên nhân. Trong đó, có tình trạng sụt giảm niềm tin trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Trong bối cảnh phát hành mới gần như đóng băng, hoạt động rút trước hạn của nhà đầu tư và mua lại trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành gây không ít khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp.
Điều này lại càng tạo nên rủi ro cho các doanh nghiệp đã phát hành, khi tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp đến hạn trả nợ trong giai đoạn từ cuối năm 2022 đến 2024 là rất lớn. Rủi ro đặc biệt đối với ngành bất động sản khi phần lớn dư nợ trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp bất động sản trong khi thị trường này đang gặp nhiều khó khăn giữa bối cảnh lãi suất ngày một tăng cao.
Việc huy động vốn qua thị trường cổ phiếu tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Dòng tiền vào thị trường đang sụt giảm do các tổ chức tín dụng (TCTD) kiểm soát cho vay, đầu tư chứng khoán chặt chẽ hơn và lãi suất cho vay ký quỹ tăng; các doanh nghiệp lớn phải thanh lý danh mục đầu tư cổ phiếu để cân đối dòng tiền mua lại trái phiếu doanh nghiệp trong bối cảnh không tiến cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng; tâm lý lo ngại, thận trọng và niềm tin sụt giảm của nhà đầu tư trước những tác động tiêu cực từ bối cảnh rủi ro vĩ mô và những vi phạm trên thị trường vốn.
Thanh khoản của các ngân hàng đang gặp nhiều áp lực và lãi suất cho vay tăng cao khiến việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp gần như bế tắc. Ngay cả khi NHNN có nới thêm “room tín dụng” thì ngân hàng thương mại cũng không đủ vốn để cho vay thêm bởi phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo quy định. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại buộc phải gia tăng lãi suất huy động để thu hút vốn, đẩy mặt bằng lãi suất lên vay lên cao, lên tới 13-15%.
Để giải quyết khó khăn Bộ KHĐT đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, NHNN và các bộ, ngành liên quan tham mưu trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2025. Trong đó, có các nhóm nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn cho các doanh nghiệp, gồm:
Đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% theo Chương trình phuc hồi kinh tế; hỗ trợ đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; kịp thời nắm tình hình, chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho thương nhân nhập khẩu xăng dầu, than, góp phần tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh năng lượng.
Xử lý kịp thời các khó khăn trong ngắn hạn liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả, bền vững trong trung hạn, dài hạn, đề xuất giải pháp xử lý chủ động, phù hợp, hiệu quả với diễn biến tình hình thực tế.
Thêm vào đó là tăng cường năng lực quản trị tài chính, khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Ổn định vĩ mô, thực ra không chỉ là bất biến, mà phải là tùy biến. Bởi lẽ, nếu bất biến sẽ dễ dẫn đến hai khuynh hướng khác nhau. Một là quá cứng nhắc, dẫn đến thiếu uyển chuyển cơ động một khi bối cảnh thời cuộc thay đổi nhanh chóng và phức tạp. Hai là, bảo thủ về tư duy điều hành, cần xem mọi sự ổn định chỉ là tương đối, linh hoạt mới là tuyệt đối. Nếu định hướng, bám chặt vào các chỉ tiêu kiểm soát vĩ mô (lạm phát/ tỷ giá…) sẽ rơi vào chủ quan, duy ý chí, dẫn đến phản ứng kém hiệu quả khi thị trường biến động mạnh. Chưa kể, ổn định kiểu bất biến còn là căn nguyên của căn bệnh thành tích nguy hại. Thời gian qua, vì lệ thuộc vào các chỉ tiêu ổn định vĩ mô đã kéo theo tình trạng khô cạn thanh khoản, mặt bằng lãi suất tăng nhanh, gây nhiều khó khăn trong hoạt động kinh tế.
rất hay. an sinh xã hội, ổn định vĩ mô là nền tảng mọi sự phát triển
Để tiến lên mạnh mẽ, thực chất, cần kiên quyết 3 chống: Nghị quyết sáo mòn/ Khẩu hiệu sáo ngữ/ Hành động sáo rỗng. Mọi thứ từ đó sẽ thay đổi ngay và luôn.